Chủ Nhật, 11 tháng 6, 2017

Phong Thần Tái Bản Đời Hạ Ngươn

NƯỚC MẮT MẸ HIỀN
 PHONG THẦN TÁI BẢN ĐỜI HẠ NGƯƠN
 Linh Lan xuống bút 26/03 ÂL – Kỷ Sửu (2009).

LỜI NÓI ĐẦU TÂM SỰ NGƯỜI TU:
 Kính thưa các chị em đồng đạo! Tôi là cư sĩ tại gia cũng như chị em, lúc đầu thì không có ăn chay, người ta gọi là đạo đụng, đụng chay ăn chay, đụng mặn ăn mặn. Vì các con tôi nói lớn tuổi cần phải bồi dưỡng, sợ bệnh, mặc dù là vậy nhưng tôi vẫn định thiền để tìm ra chơn lý, cái gì có mà không, không mà có. Không mà có, nghĩa là tôi tu không xuất gia, không cạo tóc, không mặc đồ tu, cái có là có ở trong Tâm. Ta nghe được lúc định thiền ta thu được Điển thiên và hỏi lại được, nhưng sự thật là không thấy ai hết. Khi tôi đang ngủ hay đang định thiền mà nghe kêu ngay tên tôi “mau thức dậy mà lấy bút ra Ta dạy”, khi tôi nghe kêu rồi thì rất tỉnh táo, liền ngồi dậy lấy tập, viết ra thì nghe thơ dồn dập rất là hay, có khi viết 5 trang hoặc 10 trang, có khi cả đêm, có khi mấy đêm liền mà vẫn thấy trong người rất khỏe, không buồn ngủ, khi nghe nói dứt bài thì không có câu nào để viết nữa. Hôm nay, đối với tôi dòng chữ này không phải là ngẫu nhiên nữa. Mà là tôi hữu duyên với phần Vô Vi, cho tôi được phiên âm để lưu truyền cho người chưa hiểu biết: Tu như thế nào? Để được về đâu? Cũng như tôi có nghe Đức Thầy Đạo Hòa Hảo dạy:
 Biết rằng nợ thế trả chưa xong
 Mà biết ăn năn sửa lấy lòng
 Niệm chữ Di Đà tan nghiệp chướng
 Thuyền từ Thầy đưa đến non bồng.

 Thì tôi cũng nghe lời Thầy niệm Nam mô A Di Đà Phật, mà tâm tôi suy nghĩ chẳng biết Thầy là ai ? Và ở đâu ? Theo tôi nghĩ, chẳng phải riêng tôi mà tất cả chị em cũng vậy, vì mình chẳng thấy được sự chứng đắc như thế nào phải không chị em? Các chị em đồng đạo của chúng ta đang sống trong cảnh khổ của trần gian, cũng quá chán nản của trần gian. Vì chồng, vì con, vì nghèo khổ chúng ta cũng muốn giải thoát, không muốn luân hồi nơi cõi trần này nữa, vì nó không đem lại cái gì tồn tại cho chúng ta và cuộc sống rất là mong manh, khổ sở cả đời mà chết không đem theo được cái gì hết. Chính bản thân tôi cũng nghĩ thế, nên tôi tìm một sự thật của Phật dạy: Tu bằng cách nào? Và sẽ được về đâu?

LỜI CẦU NGUYỆN:
 Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam Mô Tầm Thinh Cứu Khổ, Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Cứu Khổ Cứu Nạn Ba Giới Bốn Loài được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.

 Điển văn Thi Phú Quán Thế Âm Bồ Tát:
 Cơm nước lửa ôi thôi thảm thiết
 Vận chuyển hành vũ trụ thế gian
 Làm cho dương thế phải mang
 Trần gian chịu cảnh điêu tàn ngã nghiêng
 Nào nước lụt, thiên tai, mọc ách
 Nơi sóng thần biết trách ai gây?
 Các nước đó đó đây đây
 Nơi nào cũng có vùi thây bất ngờ
 Chữ Tu cứ bỏ lẳng lơ
 Chữ Tài, danh vọng giữ hờ một bên
 Giàu chi cuộc sống chẳng bền
 Lo giàu không hưởng chỉ ngoài tầm tay
 Năm mươi tuổi vẫn còn sai
 Quên đi cái chết nay mai cận kề
 Ráng tu để kiếm đường về
 Nghe lời Phật được về cõi Thiên Ai
 người hữu phước hữu duyên
 Gặp được quyển này kiếp trước Thần, Tiên
 Đến giờ đúng khắc Ta truyền
 Hai mươi mốt thế kỷ mở liền Long Hoa
 Người thi ở cõi Ta Bà
 Con Rồng cháu Phụng tuyển qua hội này
 Bản truyền khắp cả Đông Tây
 Đề tài ghi rõ tự mình chọn thi
 Trần gian người Phật kẻ Tiên
 Thánh, Thần cũng có người Thiên xuống trần
 Phật, Thánh truyền bá ân cần
 Đề tài ghi rõ cõi gần cõi xa
 Phép Thần đạt được ít nhiều
 Hồng trần chứng đắc thấp cao rõ ràng
 Bản này khuyên hết thế gian
 Khuyên mau tu học kịp kỳ Long Hoa.

TÂM SỰ CỦA NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA
 Kính thưa các chị em đồng đạo thân mến! Từ xưa đến bây giờ, trong các kinh Phật dạy mình Tu, có quyển dạy ta Tu mau kẻo trễ, mà chừng nào tới mà trễ? Và Tu để được giải thoát kiếp luân hồi này, và khi bỏ xác được về cõi Phật, Tiên; điều này chính tôi cũng thắc mắc là không biết Tu làm sao ? Cách tu như thế nào ? Và khi chết hồn mình sẽ về đâu ? Và đâu là Tây Phương ? Đâu là Cực Lạc ? Đâu là Niết Bàn ? Và ở đó có ai, học phải làm gì ? Sự thật là ta chẳng biết và cũng chẳng thấy bao giờ. Còn làm tội thì xuống địa ngục, việc này tôi cũng hoang mang. Bởi vì người chết như: Cha, mẹ, anh, chị, em có thấy ai về nói gì và ở đâu ? Thưa các chị em! Tôi được nghe và tôi được xuống bài và hiện giờ tôi dùng chay. Tôi luôn cầu xin Trời cha Đất mẹ ban ơn cho biết sự thật của cõi Âm và cõi Thiên, cho con nghe và chính mắt con thấy. Thì tôi nghe có tiếng trả lời: “Chưa tới thời cơ, hãy chờ đấy, đúng giờ, đúng khắc Ta ban”. Nhưng tôi cũng được toại nguyện một lần đi xuống và được một lần đi lên, nhưng chưa cho nói ra những gì mà mắt thấy tai nghe và hôm nay tôi xin tái lập những lời Phật dạy và của Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát. Qua cơn bão số 5 và những trận động đất ở các nơi. Mẹ rất đau lòng vì thương cho lê thứ ở các nước và các nơi như cầu Cần Thơ bị sập, thật là vô cùng thảm thiết. Đây là điềm thống khổ Kỳ 3, Đại hội Long Hoa gần đến, có nhiều tà ma, quỷ quái đang hãm hại người hiền, nên Mẹ ra bờ biển Nam Hải mà Mẹ ngồi Mẹ khóc.

 Nhờ Mẹ đổ lệ Hải Nam
 Bởi vì Mẹ quá xót thương con hiền
 Lòng lành thương mến con thơ
 Mẹ ra ngồi khóc thương con hồng trần
 Độ con khỏi cảnh khổ thân
 Thế Tôn thuyết pháp có sai lý nào ?
 Chín ngày con bị đoạ đày
 Mà con có hiểu cho lòng Mẹ đau
 Nay cho Ngọc Nữ xuống trần
 Ðiển Thiên lịnh Mẹ truyền ra
 Phong Thần Như Lai thuyết Pháp tối cao
 Các con ráng học Phong Thần cho thông
 Phong Thần vạn phước thiên ân
 Các con cõi thế ráng tu đặng về
 Về đây với Mẹ cảnh Tiên
 Sông mê bể khổ ham chi lợi quyền
 Cõi trần vất vả làm ăn
 Ráng lo thi dự Mẹ tuyên bảng vàng
 Khuyên con giác ngộ Phong Thần
 Trường chay để cứu muôn loài sanh linh
 Mọi người dưới thế đồng tình
 Thứ tha tất cả sanh linh muôn loài
 Không tu cũng được về Trời
 Tâm lành là Phật hiện đời này đây
 Khổ thân bởi tội mình gây
 Sát sanh thường mạng nghiệp gây luân hồi
 Kỳ này lần cuối lo thi
 Không phải khổ ải bị sa A Tỳ
 Làm sao mẹ cứu được con
 Quỷ vương cướp mất Mẹ giành được sao
 Ai là tiền kiếp căn Tiên Đọc xong
 Thần Bản học thi ngay liền
 Dự thi nên đến ngôi chùa
 Hoặc là Tịnh xá Thất tu Cao Ðài
 Nguyện là có Mẹ Quan Âm
 Hay là Bổn Sứ Thích Ca ngự Ðài
 Cầu xin tên họ, tuổi con
 Con nay phát nguyện từ rày xin thi
 Các cõi nay Mẹ đã ghi
 Tự con chọn lựa tự con hành thiền
 Đây là Mẹ dạy đứa phàm
 Còn trong bá tánh Tăng Ni hiểu rồi
 Nếu chư vị Tăng Ni hiểu Thấu rõ
 Phong Thần nên ngõ phước duyên
 Đọc xong nêu rõ chúng sanh
 Đây là vạn phước, vạn kinh chẳng bằng
 Tăng Ni thi đức ban ơn
 Thuyết ra bá tánh kinh nay tỏ tường
 Không dễ có đặng Phong Thần
 Thiên cơ tiết lộ dẫn đường chúng sanh
 Nếu ai là kẻ thiện duyên
 Gặp đặng Thần Bản là duyên ngộ lành
 Đó là báu quý Ngọc Châu
 Học xong thi đậu, Tây Phương Niết Bàn
 Dù cho vạn quyển kinh Thiên
 Khó đem sánh nổi Quan Âm Phong Thần
 Tây Phương có Ðức Di Đà
 Ai mà cao đức Di Ðà đưa sang
 Bao nhiêu pháp chú tối cao
 Phật, Bồ Tát thuyết là vô Phong Thần
 Đại Bi của Mẹ diệu thâm
 Cũng dành thâm nhập Phong Thần lực hơn
 Như Lai Tổ Đạt chưa ghi
 Thần thông diệu pháp lẻ hai ba nghìn
 Tổ Ðạt vừa dứt bút xong
 Dâng lên chín chín sáu trăm bốn nghìn
 Phong Thần bí pháp diệu kỳ
 Đọc qua thấu hiểu là người Huệ Quang
 Nếu con có bạn lòng thành
 Truyền ra bạn biết để cùng dự thi
 Chớ đừng ích kỷ làm chi
 Sanh ra tai ách hoạ mang vào mình
 Đó là phước đức thế gian
 Còn hơn là tụng Quan Âm cứu đời
 Mong sao con trẻ ngộ lòng
 Niết Bàn ở thế, Long Hoa cận kề
 Thánh, Thần, Tiên, Phật cùng về
 Dự hội Bàn Đào hưởng rượu trường sanh
 Quán Âm chuyển bút từ bi
 Thuyết ra cơ điển phú thi Ta Bà
. Trích Điển Văn Thi Phú Quán Thế Âm Bồ Tát.

TÂM SỰ QUAN THẾ QUAN ÂM BỒ TÁT:
 Người viết ra Phong Thần này là Đạt Ma Sư Tổ Điển Thiên xuống bút ra đời Phong Thần Bản, Quan Thế Âm Bồ Tát, để cứu độ chúng sanh ba kỳ, nhưng kỳ ba này Mẹ buồn hơn hai kỳ trước, Mẹ rất là buồn. Đức Đạt Ma Như Lai một hôm sang bờ biển phía Nam, nơi Quan Thế Âm Bồ Tát ngự, tình cờ ông thấy Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi khóc như mưa rơi, Đạt Ma liền hỏi Quan Thế Âm Bồ Tát sao Đức Bà buồn mà khóc vậy ? Quan Thế Âm trả lời : - Tôi khóc vì chúng sanh dại lắm, lỗi lầm nhiều phen. Ta là Mẹ hiền không nở thấy đàn con dại mà không cứu, Ta xuống điển linh quang không biết bao nhiêu lần thế mà chúng sanh các con Ta không giác ngộ được, thì Ta vui sao được chứ. Đạt Ma tới đây còn thấy Thế Tôn Như Lai Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật thấy Bà ngồi nên Phật có lời mời Quan Thế Âm Bồ Tát về Tây Thiên Trúc dự hội Bàn Đào để tìm cách cứu dân độ thế.
 CÕI TÂY THIÊN TRÚC Cõi tây phương Thích Ca Mâu Ni cùng hội Phật, cả Niết Bàn đồng lòng vì tâm từ bi thương xót chúng sanh của Quán Thế Âm Bồ Tát nên Phật mở hội yến, mời tất cả Trưởng Giáo của chín nuớc Thiên Đàng và 5 cõi Niết Bàn về đây dự hội, đến dự đại đồng có các vị Thần, Thánh, Tiên và Bồ Tát đầy đủ.
- Địa Thần : có 3 vị
1) Là Nữ Sinh Công Thần
2) Là Thần Tài
3) Là Thổ Địa
- Nhơn Thần : có 3 vị
1) Là Địa Quyền Nữ
2) Là Ý Nhi Kim Thần
3) Là Lưu Huỳnh Thổ Công Thần
- Thiên Thần : có 3 vị
1) Là Bà Maria Mẹ Chúa Giêsu
2) Là Khương Tử Nha
3) Là Bạch Y Thần
- Địa Thánh : có 3 vị
1) Là Đại Thánh Nguyễn Bỉnh Khiêm
2) Là Hồng Minh Nguyễn Minh
3) Là Thái Thiên Minh Vương
- Nhơn Thánh : có 3 vị
1) Là Kim Tra
2) Là Mộc Tra
3) Là Na Tra
- Thiên Thánh : có 3 vị và 1 Đức Chúa
1) Là Đức Chúa Giêsu:
2) Là Lý Tịnh
3) Là Quan Thánh Đế Quân
4) Là Triệu Tử Long
- Địa Tiên : có 5 vị
1) Là Tây Thi Tiên Nữ
2) Là Thiên Nga Tiên Nữ
3) Là Kiều Nguyệt Tiên Nữ
4) Là Cẩm Lan Ánh Tuyết Tiên Nữ
5) Là Hồng Đào Tiên Nữ
- Nhơn Tiên : có 3 vị
1) Là Ngũ Công Vương Khẩm Tước
2) Là Thái Thượng Lão Quân
3) Là Hộ Pháp Phạm Công Tắc
- Tiên Thiên : có 3 vị
1) Là Chúa Tiên Huyền Nữ
2) Là Hồng Quân Lão Tử
3) Là Tam Thanh Đông Hải Tiền Bối
- Bồ Tát gồm có :
1) Là Địa Tạng Vương
2) Là Mục Kiền Liên
3) Là Đạt Ma Bồ Tát
4) Là Ngũ Công Vương
5) Là Đà La Ni Bồ Tát
6) Là Phổ Hiền Bồ Tát
7) Là Quán Thế Âm Bồ Tát
 Cùng tất cả các vị Bồ Tát khác trong buổi dự tiệc vui vẻ. Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Như Lai đã  thuyết pháp đại thừa tối cao Phong Thần Bản này. Người viết ra bằng chữ hán là Đạt Ma Như Lai Sư Tổ  nhưng lại có tên Phong Thần Bản Quán Thế Âm Bồ Tát. Là vì bà quá thương tất cả chúng sanh, bà ra bờ biển phía Nam, Nam Hải bà ngồi khóc khiến Thế Tôn cảm động vì lòng bà mẹ bao la mới thuyết ra Bản Phong Thần này truyền bá ra cách tu và ăn chay, bản này do Đạt Ma sư tổ phiên dịch và xuống bút.

ĐẠT MA LÀ AI ? Là vị ở chùa thường tôn thờ ngài mặc áo xanh đen vai quẩy chiếc giầy và bằng gậy kim pháp, sau khi Tổ Đạt Ma viết xong quyển Phong Thần tự nhiên hoa ở Niết Bàn rải các hoa báu tung bay cã cõi trời. Các Đức Phật mười phương tỏ lòng hoan hỷ Đạt Ma chứng quả Đấu Chiến Thắng Phật thứ hai. Vậy từ nay cõi Niết Bàn có hai vị mang danh Đấu Chiến Thắng Phật. 1) Là Tôn Ngộ Không người diệt được thiên ma ba tuần đắc được Đấu Chiến Thắng Phật. 2) Là Đạt Ma Sư Tổ người viết ra Phong Thần Bản thời hạ ngươn này, đời mạt pháp có công lớn lao cho nhân loại chúng sanh nên đắc quả Đấu Chiến Thắng Phật thứ hai. Điều này cho thấy Phong Thần Bản là Bổn Địa Thừa Nhứt Nguyên Lý Hư Vô Cực. Quyển sách này có ra nhiều nước xuống nhiều nơi và nhiều thứ chữ để cho nhân loại dễ học và tu, chỉ từ cách tu và ăn chay để thi và tự lựa chọn cung nào ? Đây là đời phạt pháp cũng là quyển đầu tiên được tha tội cho các linh căn xuống trần mau tu trở về với Mẹ để kịp kỳ thi và dự hội Long Hoa. Các độc giả đọc đừng khinh quyển Phong Thần Bản này, nếu ai đọc qua mà truyền bá cho chúng sanh hoặc xếp chữ in lưu truyền rộng rãi ra chắc chắn người đó được đại phước mà còn hơn là tu ở chùa, nếu đến tay mình đừng ích kỷ không cho người khác xem thì mình không được phước.

PHONG THẦN QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT - Chia ra làm 2 phần :
1.Là Cửu Phẩm Thần Tiên Cõi Thiên
2.Là Phẩm Ngự Cõi Niết Bàn PHẨM MỘT CHÍN NƯỚC THIÊN ĐÀNG
1.Là nước Thiên Đàng đầu tiên cung Địa Thần, đây là cõi trời thứ nhất tứ dưới lên. Cung Địa Thần, có đa số là các vị Địa Thần cư ngự gồm tất cả vị tu hành ở thế gian trong bá đạo tu đắc quả Địa Thần đều ngự cung này.
Gồm có Quan Thần, Dân Thần, Động vật các vị Thần nuôi.

PHÁP ĐỊA THẦN :
 Có 3 hạng phép là : 28, 26 và 24 phép. Đây là trường thi cho người thế gian hiện tại. Từ lâu các con Ta tu mà chưa biết cách tu để đạt về cõi nào ? Nay mẹ chỉ rõ cách tu dễ nhất và gần nhất. Bằng cách các con phải ăn chay, ăn chay là các con đã tỏ lòng sám hối từ nhiều đời nhiều kiếp, các con có ăn chay, các con mới có lòng nhân tha thứ cho tất cả và đã xả bỏ những gì tội lỗi trong nhiều đời của các con, đây cũng là lần cuối mà mẹ tha tội cho các con bắt đầu từ ngày này các con hãy nghe lời mẹ chỉ còn lần cuối mà Mẹ phải cứu hết các con. Các con nên hiểu là tất cả các con biết ăn chay, cả nhóm ăn chay, cả nước đều ăn chay, tu hành biết tha thứ cho nhau, biết yêu thương nhau, biết đùm bọc lẫn nhau, thì thế giới đó không có chiến tranh, không có giết hại lẫn nhau, và con người không còn tham lam, dối trá thì kiếp sống từ người trở nên là Bồ Tát. Ngày hôm nay các con còn sống đây cho đến ngày thi thì Mẹ tập các con làm làm Bồ Tát, làm Phật, và trường thi đã có dành cho mỗi trình độ đạo đức và cách tu ăn chay, trong mỗi trường đều có các vị chấm thi có Tiên, và từng cõi từ dưới lên, rất rõ ràng, kỳ ba này Mẹ chỉ rất rõ để cho các con tự lựa chọn mà định số phận của mình, vì từ đây Cha rất gần, Mẹ vẫn ở bên các bên các con, Thánh, Thần luôn luôn hỗ trợ cho các con, mà các không học, không ăn chay, không định thiền, không làm phước đức mà cứ theo đường ác thì lần này các con đừng trách Mẹ sao không cứu các con.
 Con ơi chỉ còn một lần
 Ăn chay sửa tánh để còn dự thi
 Bảng Vàng tên tuổi đã ghi
 Long Hoa đại hội được ngồi tòa sen
 Phật, Trời, Cha, Mẹ đồng khen
 Chấm công tặng bảng một ngôi sẵn dành
 Non Tiên lộ bóng ngọc hành
 Hiện thân Bồ Tát độ dần chúng sanh.
  1. ĐÂY LÀ TRƯỜNG THI CỦA PHẨM ĐỊA THẦN 
Có 3 vị chấm thi và 3 hạng phép 28, 26 và 24 phép Giáo chủ chấm thi cõi này có 3 vị :
1- Nữ Sinh Công Thần đạt 28 phép
2- Thần Tài đạt 26 phép
3- Thần Thổ Địa đạt 24 phép
Chúng sanh cõi ta bà và thế gian hồng trần ai muốn thi này về phẩm Địa Thần, đây là những người có duyên về với Nữ Công Thần, cũng là lớp nhẹ nhất, dễ học, dễ thi và cơ hội cho những chúng sanh ở hạng hạ thừa.
ĐIỀU KIỆN DỰ THI : Ăn chay 1 tháng ít nhất là 10 ngày, tâm hiền lành, làm phước, bố thí, ngày sau chết rồi mà tùy việc phước đức mà chứng đắc 3 hạng phép như đã đạt được nhiều hơn tùy theo sức ăn chay của mình, còn ăn sụt xuống thì chẳng được gì, chẳng khác nào uổng công gieo lúa mà không thu gặt hạt nào, tức là không đạt pháp nào, đó chắc chắn rằng bị đọa sa a tỳ địa ngục nếu tâm ở ác. - 10 ngày trong 1 tháng : - mùng 1,8,14,15,18,23 ,24,28,29,30 nếu tháng thiếu ăn thêm ngày 27.

 PHẨM THỨ HAI NƯỚC THIÊN ĐÀNG
 - Nhị cung nhơn thần. Cung Trời Nhơn Thần : có đa số các vị ngự tại đây là Nhơn Thần và thú vật thần nuôi và Dân Thần, Quan Thần.
- PHẨM NHƠN THẦN : có 3 hạng phép là 30,32 và 34 phép. Trưởng giáo cung này là :
1) Đại Thần Quyền Nữ đạt 34 phép
2) Ý Nhi Kim Thần đạt 34 phép
3) Lưu Huỳnh Thổ Công Thần đạt 30 phép.
- ĐIỀU KIỆN DỰ THI : Ăn chay 1 tháng 12 ngày ( 1, 2, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 25, 28, 29, 30 ) Tâm hiền lành, làm phước bố thí.

CỬA PHẨM THỨ 3 NƯỚC THIÊN ĐÀNG 
- Cung Thiên Thần đây là cung thứ 3 từ dưới lên cõi trời, cung Thiên Thần có đa số là Thiên Thần đều về ngự. Gồm Quan Thần, Dân Thần, thú vật Thần nuôi.
- PHẨM THIÊN THẦN, có 3 hàng phép là 36,48, 52 phép. Giáo chủ cõi này là :
1) Đức Mẹ Maria đạt 52 phép
2) Khương Tử Nha đạt 48 phép
3) Bạch Y Thần đạt 36 phép
- ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay 1 tháng 16 ngày, tâm hiền lành, yêu thương chúng sanh. 16 ngày là : 1, 5 ,8 , 9, 10, 12,14,15, 17, 18, 20, 23, 24, 28, 29, 30
-NƯỚC THIÊN ĐÀNG CUNG ĐỊA THÁNH Đây là cõi trời thứ 4 từ dưới lên, gồm có các vị đắc quả Địa Thánh ngự tại đây. Gồm có Quan Thánh, Dân Thánh, các con vật Thánh nuôi.

PHẨM THỨ 4 ĐỊA THÁNH
 Có 3 hàng phép : 70, 68 và 62 phép. Trưởng giáo cõi này là:
1) Nguyễn Bỉnh Khiêm đạt 70 phép
2) Hồng Minh Nguyệt Nhơn đạt 68 phép
3) Thái Minh Thiên Vương đạt 62 phép.
- ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay 1 tháng 18 ngày, tâm hiền lành, làm phước , hào khí quân tử, chánh nhân. 17 ngày là : 1, 5, 7, 8, 9, 10, 12 , 14, 15, 17, 18, 20, 23, 24, 28, 29, 30.

 PHẨM THỨ 5 CUNG NHƠN THÁNH
 Cung Nhơn Thánh có đa phần Nhơn Thánh đắc đạo ở thế gian đều ngự tại cung điện này. Gồm có Quan Thánh, Dân Thánh và con vật Thánh nuôi. Phẩm Nhơn Thánh có 3 hạng phép là 92,82 và 72 phép. - Trưởng giáo cõi này là :
1) Mộc Tra đạt 92 phép
2) Kim Tra đạt 82 phép
3) Na Tra đạt 72 phép Ba vị Nhơn Thánh này đều là 3 người con trai của Lý Tịnh khi còn ở thế gian. - ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay 1 tháng 22 ngày có tâm hiền lành, chánh nhân. 22 ngày trong tháng là ngày : 1, 3, 4, 5, 7, 8 ,9, 10, 12, 14, 15, 17, 18, 20, 21, 23, 24, 25, 26, 28, 29 ,30,

 CÕI TRỜI THỨ 6 PHẨM THIÊN THÁNH 
Có 4 hạng phép 3600, 220, 172 và 120 phép.
1) Chúa Giêsu đạt 3600 phép
2) Lý Tịnh đạt 220 phép
3) Quan Thánh Đế Quân đạt 172 phép
4) Triệu Tử Long đạt 120 phép - ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay 1 tháng 25 ngày, tâm hiền, chánh nhân 25 ngày là ngày 1, 2 ,3, 4, 6, 7, 8, 9,11, 12, 13, 14, 15,17, 18, 19, 21, 22, 23, 24, 25, 27, 28, 29, 30.

 NƯỚC THỨ 7 CÕI THIÊN ĐÀNG CÕI CUNG ĐIỆN ĐẠI TIÊN
 Đây là cảnh Tiên đầu tiên của cõi Trời, một cảnh đẹp mắt, lâu năm Mẹ cho trở về cảnh cũ. Kỳ này Mẹ kêu gọi các linh căn xuống trần mau mau thi vào phẩm này để gặp Mẹ và tỷ muội của mình ngày xưa đang chờ đợi.
PHẨM ĐỊA TIÊN : có 1 hàng phép 482 phép, Cung Địa Tiên trên có 5 vị Tiên Nữ làm trưởng giáo cũng 1 ấn 2 thông. Khi ở thế gian 5 vị này kết bạn và cùng có một lời thề nguyện tu thành Tiên Nữ và đã gặp thầy, chỉ dạy luyện đạo là Nữ Bà Minh Vương Khẩm Tước, sau tu đắc quả cùng một loại phép là 482 phép. NGŨ HÀNG 5 CÔ TIÊN :
1) Tây Thi Tiên Nữ
2) Kim Hồng Nhi Nữ
3) Cẩm Lan Ánh Tuyết Tiên Nữ
4) Thiên Nga Tiên Nữ
5) Minh Kiều Tiên Nữ
-ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay 1 tháng 27 ngày kèm theo tâm thiền nhập định, mỗi ngày thiền 45 phút đến 1 giờ, định hoặc tịnh 7 ngày lúc cuối đời có lòng hiền, lòng nhơn hậu ! 27 ngày là : 1,2,3,4,5,6,8,9 ,10,11,12,13,14 ,15,16,18,19,20 ,21,22,23,24,25 ,26,28,29,30.

 NƯỚC THỨ 8 THIÊN ĐÀNG CUNG ĐIỆN NHƠN THIÊN
 Đây là cảnh tiên thứ 2 ở cõi trời, tầng này không khí nhẹ có nhiều cảnh đẹp. Gồm có Quan Tiên, Dân Tiên, các con vật Tiên nuôi Nhơn Tiên : có 3 hàng phép 888, 772 và 682 phép 1) Thái Thượng Lão Quân đạt 888 phép 2) Ngũ Công Vương Khẩm Tước đạt 772 phép 3) Thái Ất Thần Tôn đạt 682 phép - ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay 1 tháng 29 ngày tâm hiền. 29 ngày là 1,2,3,4,5,6,7,8 ,9,10,11,12,13, 14,15,17,18,19, 20,21,22,23,24, 25,26,27,28,29, 30.

 NƯỚC THIÊN ĐÀNG THỨ 9 CUNG ĐỊA TIÊN THIÊN
 Còn gọi là Cửu Thiên Huyền Hóa. 
1) Hồng Quân Lão Tổ đát 2772 phép 
2) Tiền Bối Tam Thanh Đông Hải đạt 1882 phép 
3) Địa Tiên Kim Quan đạt 992 phép 
- ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay trường, định thiền 7 đến 9 giờ đồng hồ.

 NIẾT BÀN Niết bàn có 5 cảnh giới Cực Lạc:
 Đây là 5 cảnh giới có 5 trường thi hàng Bồ Tát, dành cho những bậc tiền bối, những vị Đại Giáo Ngộ, Đại Căn Cơ, Đại Trí Huệ, Đại Trí Tuệ
.
TRƯỜNG BỒ TÁT TRƯỜNG THỨ NHẤT
 ĐÂY LÀ CẢNH NHỨT THIẾT NIẾT BÀN CÕI HƯ VÔ KIM SẮC. Đây là trường Bồ Tát đầu tiên từ dưới lên ai muốn thi vào trường này phải là những sĩ trẻ vượt qua Cửu Thiên Huyền Hóa thì mới mong vào cõi này.
+ Hàng Bồ Tát Cõi Hư Vô Kim Sắc có 3 hàng phép 3002, 3050 và 3072 phép. Giáo chủ cõi này này là:
1) Mục Kiền Liên, đạt 3072 phép
2) Địa Tạng Vương Bồ Tát đạt 3050 phép
3) Đạt Ma Sư Tổ Bồ Đề đạt 4699 phép.
- ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay trường, lập nguyện chúng sanh, lòng từ bi vô lượng, trí huệ hàng thuợng tuệ trí, thiền 1 ngày 12 giờ đến 14 giờ.

TRƯỜNG 2 BỒ TÁT 
Cảnh nhị Niết Bàn có cõi Hồng Bạch Nguyệt Cầm Linh Sơn Hội Tràng Phật Bồ Tát. Đây là cảnh Nhạc Hồng Nhi Nguyệt Cầm Linh Sơn, Dương Cầm khảy để cứu độ chúng sanh. Cõi này có 7 cây đàn lợi hại. Các vị Bồ Tát ở cõi này suốt ngày ngồi nghe nhạc, còn 7 vị Bồ Tát Đại Giác Ngộ Kim Quag dùng đàn để khảy cứu độ chúng sanh. Cõi này có 7 hàng phép là 4002, 4001, 4000, 3999, 3998, 3997 và 3996
1) Tổng Trì Vương Đại Bồ Tát Ma Ha Tát đạt 4002 phép.
2) Quá Khứ Vô Lượng Kiếp Tỳ Bà Thi Giá Na Phật đạt 4001 phép
3) Quá Khứ Cứu Thập Cứu Ức Cân Giá Sa Phật Thế Tôn đạt 4000 phép
4) Quá Khứ Vô Lượng Kiếp Thiên Quang Vương Tịnh Tu Thế Tôn đạt 3999 phép
5) Hiển Kiếp Thiên Phật Tâm Thế Nhứt Chư Phật Thế Tôn đạt 3998 phép
6) Quang Đại Viên Mãn Vô Mãn Ngại Đại Bi Tâm Đại Đà La Ni Thần Diệu Chân Cú đạt 3997 phép
7) Xiễn Thiên Thai Giáo Quan Thế Âm đạt 3996 phép.
- ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay trường, lập nguyện độ chúng sanh, lòng từ bi vô lượng độ sanh, mỗi ngày thiền từ 12 đến 14 giờ.

 TRƯỜNG THỨ 3 NIẾT BÀN 
Cảnh tam Niết Bàn, Cõi Cảnh Kim Quang Đại Giác. Cõi này các vị Bồ Tát ngồi tòa sen dùng ánh hào quang màu vàng ngũ sắc quan sát xuống thế trần để độ người cõi thế. Cõi này có 3 hàng phép 4036, 4072 và 4092 phép.
1) Quan Thế Âm Bồ Tát đạt 4092 phép
2) Đại Thế Chí đạt 4092 phép
3) Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật đạt 4072 phép
4) Tỳ Lô Giá Na Phật đạt 4036 phép.
 ĐIỀU KIỆN DỰ THI Ăn chay trường Tu hạnh Bồ Tát Chí Tâm Đại Từ Bi có trí tuệ Chí Khiếu Quang Giác Ngộ đạt cõi.

 TRƯỜNG THỨ 4 CẢNH NIẾT BÀN CÕI HUỆ QUANG
 Cõi này các vị Bồ Tát dùng Huệ Quang để cứu độ chúng sanh, các vị này tuy ở Niết Bàn rất xa với chúng sanh cõi thế gian hồng trần nhưng khi dùng Huệ Nhãn Quang cảm thấy chúng sanh như trước mắt.
TRƯỜNG THI THỨ 5 
Cảnh Ngũ Sắc Vân, Niết Bàn cõi nhất thiết, Kim Thiền Như Lai, Nhất Huyền Vi Diệu Pháp Đây là cảnh Trời Niết Bàn là cõi cao nhất còn gọi là Tây Thiên Trúc nơi Thế Tôn Như Lai ngự giá Giáo Chủ Tây Phương. Cõi này các vị tu luyện về thiền định để đạt Nhứt Thiết Như Lai Chánh Pháp Nhứt Tiền Vi Diệu Pháp Tối Cao Thượng Thừa ngự tại cõi này. Số phép hàng này chia làm 3 hạng 4800, 4772 và 4699 phép
1) Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đạt 4800 phép
2) Thiên Đăng Cổ Phật đạt 4800 phép
3) Đấu Chiến Thắng Phật đạt 4772
4) Đạt Ma Như Lai đạt 4699.

DỊCH VĂN THI PHÚ QUAN ÂM BỒ TÁT TÁI BẢN XUỐNG BÚT ĐỜI HẠ NGƯƠN
 Để dạy chúng sanh trần thế và các cõi, các bậc tu cho được mau chứng đắc, kỳ ba này Mẹ Quan Thế Âm dạy rất rõ dễ tu, chỉ cần ăn chay đó là sám hối từ nhiều đời nhiều kiếp, chỉ còn một kiếp ngắn ngủi này nên truyền bá ra cho chúng sanh được biết mà đăng ký vào thi cho kịp.
Thơ Bạch trinh nữ lấy nghĩa nhân
Muốn về cõi Phật lập thân cõi này
Ngày xưa tu học không Thầy
Giờ này có Mẹ có Thầy dạy khuyên
Dạy tu có cả Thiện Duyên
Cách tu có lớp có trường đề thi
Mau mau tên tuổi cứ ghi
Có Thần có Thánh hộ trì sớm trưa
Tìm đường trở lại Phật chừa sẵn ngôi.

Mẹ Quan Thế Âm ngồi khóc ở bờ biển Nam Hải:
Qua rồi những trận bão giông
Quan Âm ngồi khóc bởi thương con trần
Khổ đau giông tố mấy lần
Nơi thế sụp đất người thì cuốn trôi
Nhìn xem khổ cảnh không nguôi
Thấy người vùi lấp kéo lôi mất hồn
Thế gian đâu có trường tồn
Cảnh trần là chốn tội đày trả vay
Một lần có một không hai
Mẹ nay khuyên bảo các con nghe lời
Màn ba đã cuối hết rồi
Hạ ngươn nay đã lập đời Thánh Tiên
Ráng nghe lời Mẹ dạy khuyên
Ghi tên chọn bản học đi kịp kỳ
Ăn chay khỏi lạy khỏi quỳ
Định Thiền để được Điển thì ngự thân
Có Thần có Mẹ ân cần
Mở cho sáng suốt rửa thân hội này.

PHONG THẦN XUỐNG BÚT KỲ BA 
Nhờ Mẹ Quan Âm khóc ở biển Nam Hải vì lòng thương yêu đàn con thơ dại ở thế gian mê vật chất, mới ra Phong Thần, Quan Âm Đức Mẹ nhiều lúc đỡ chúng sanh độ chúng sanh khỏi chốn sai lầm hồng trần, Thế Tôn thuyết pháp có sai lý nào. Chín ngày con bị đọa sa a tỳ, mà con thơ không hiểu cho lòng Mẹ, chính vì thế nên Mẹ Quan Thế Âm cho xuống bút kỳ ba này nhằm hầu Mẹ truyền ra Phong Thần, vì Thế Tôn thuyết pháp tối cao, Mẹ sợ đàn con thơ trí tuệ ít, không hiểu được thông suốt Phong Thần mà uổng công lại bị đọa không giác ngộ được.
Mẹ khuyên các con ở thế trần ráng lo thi để sau này Mẹ truyền bảng vàng. Còn như không ráng lo tu thi dự ngày sau khổ ải đọa xuống a tỳ chừng đó Mẹ Quan Thế Âm không thể cứu được, khi quỷ vương đã bắt tội và đưa con vào địa ngục a tỳ thì Mẹ đành chịu thua vậy, không thể nào cứu các con được, ai là con của Thần Tiên đọc xong Thần Bản này ráng lo dự thi ngay liền, nếu không thì không còn kịp thời Thượng Ngươn Long Hoa Hội. Khuyên chúng con ở thế gian đọc xong hãy truyền cho mọi người đọc với cùng dự thi. Nếu người có lòng ích kỷ xem biết một mình thì coi chừng người đó bị họa mang vào mình, vì đây là bí pháp để cứu dân độ thế kỳ ba này. Nếu ai có tâm đạo truyền ra cho mọi người biết thì người đó được đại phước.
Phong Thần Phật thuyết chẳng sai
Làm người phải biết học ngay thi liền
Học mau để dự hội Tiên
Nếu không kẻo trễ như thuyền chẳng đưa
Thanh tâm rửa xác Phật chừa sẵn ngôi
Phật, trời kêu gọi con ôi
Màn ba sắp hết nổi trôi chớ gì
Tu mau trở lại trường thi
Bài này Mẹ xuống bút ghi rõ ràng
Truyền cho bá tánh thế gian
Ai muốn hết khổ Tây Phương bước vào
Khỏi cơn sóng gió ba đào
Thoát đi một kiếp luân hồi tái sanh
Về Thiên dự yến Phật dành
Bồ Đào ban thưởng hiện hành chẳng sai
Bồng Lai Tiên cảnh tháng ngày
Hoa thơm tỏa ngát yến bày múa ca
Các con nay đã tầm ra
Phong Thần nhất bản được vào ghi tên
Các con Mẹ để hàng trên
Phong Thần tái bản kỳ ba kiếp này
Kỳ ba chỉ một lần thi
Biết mà không học chớ thì trách ai
Phật Tiên cứu độ hằng ngày
Phong Thần tái bản Phật, Thần dự thi
Ngày này ấn bút Mẹ ghi
Mẹ cho các nước xuống bái các nơi
Nước nào tiếng đó kêu mời
Chơn căn thức tỉnh học đời dự thi
Từ Phật, Tiên, Thánh, Thần ghi
Điển quang xuống bút cho nhiều linh căn
Quy là ý có khác văn
Nội quy cũng đúng trường thi bản đề
Bao nuớc kết hợp tựu về
Phong Thần tái bản thu về một nơi
Linh căn tu học biết rồi
Mỗi nơi mỗi ý cũng lời Mẹ Cha
Phật, Tiên, Thần, Thánh xuống cõi ta bà
Trợ duyên giúp sức xuống bài khuyên tu
Một lần xuống bút khuyên đời
Ngàn lần phải chịu người đời chê bai
Lần này có một không hai
Chê bai mặc kệ ta đây chẳng buồn
Trần gian tham diễn nhiều tuồng
Tuồng nào cũng có đến hồi kết thôi
Phật ma, ma Phật khắp trời
Theo Phật mới biết ai thời là ma
Con người, con phật, con ma
Con ta, con Phật mới ra Phong Thần
Lời đây Ta nói xa gần
Trông xa mà biết rất gần ở tâm
Thương con Mẹ độ âm thầm
Thương con Mẹ kiếm Mẹ tầm các con
Hữu tình tắc hoại chẳng còn
Vô Vi mà có trường tồn bản lai
Bút Thiên ta đã xuống bài
Mong trong bá tánh đừng rầy bỏ qua
Về Thiên gặp Mẹ gặp Thầy
Phong Thần chạm bản hội này có tên.

Nam Mô A Di Đà Phật Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Nam Mô Phổ Đà Vương Nam Hải chứng minh.
Con xin hồi hướng xuống bút này đến với chúng sanh trong 10 phương trong vũ trụ này và cùng 3 giới 4 loài thấy nghe bản Phong Thần này, trang nghiêm Phước Đức, tinh tấn tu hành cho đến ngày thành chánh đẳng, chánh giác. Nam Mô A Di Đà Phật. Ăn chay diệt tội trị bệnh.

Mẹ hiền cứu khổ Quan Âm
Mượn Tay trần thế Linh Lan ghi lời.
Dạy khuyên các trẻ y lời Mẹ ban
Ăn chay khỏi bệnh nghiệp tiêu
Ăn chay mạnh khỏe oan khiên chẳng còn
Ăn chay làm phước mới còn
Ăn chay niệm Phật phước càng tăng cao
Ăn chay sử tánh dồi trao
Ăn chay mới biết thấp cao đạo hiền
Ăn chay niệm Phật làm lành
Ăn chay mới trổ nhiều cành Hoa Tiên
Ăn chay kết được Thiện Duyên
Ăn chay mới thấy điển thiên tăng dần
Ăn chay mở trí hội thân
Ăn chay mở được sáu tầng ngục môn
Ăn chay giữ được xác hồn
Ăn chay tan nghiệp phước hồn về sau
Ăn chay cửa Phật đặng vào
Ăn chay áo gấm mão bào Mẹ ban
Ăn chay cứu được tam tràng
Ăn chay cứu được bảy đời Mẹ Cha
Ăn chay niệm chữ Di Đà
Ăn chay con cháu cả nhà hiền lương
Ăn chay Phật chứng mười phương
Ăn chay ở thật người thương kẻ chào
Ăn chay Phật Thánh đón vào
Ăn chay cha Mẹ rượu đào đợi ban
Ăn chay không có gian nan
Ăn chay con cháu giàu sang hơn người
Ăn chay chẳng sợ chê cười
Ăn chay để mở mười điều từ bi
Ăn chay kinh chú ráng trì
Ăn chay để thấy những gì khai thông
Ăn chay biết được non bồng
Ăn chay mới thấy cái lòng biết yêu
Ăn chay niệm Phật sớm chiều
Ăn chay mới thấy được nhiều điển quang
Ăn chay không có chết oan
Ăn chay sống mãi còn tăng lộc tài
Ăn chay vạn kiếp gặp may
Ăn chay Tiên Phật đáp lai hộ trì
Ăn chay có dạ từ bi
Ăn chay thương hết những gì có thân
Ăn chay mới biết xa gần
Ăn chay mới biết mấy tầng thấp cao
Ăn chay khỏi đổ máu đào
Ăn chay mới được bước vào cửa thiên
Ăn chay khỏi bị xích xiềng
Ăn chay mới khỏi cái miền trầm luân
Ăn chay nghiệp chướng mới dừng
Ăn chay mới thoát kiếp mình trả vay.

HÔM NAY MẸ KHUYÊN ĂN CHAY
 Đời này mạt pháp hạ ngươn.
Ăn chay rửa xác để còn dự thi
Muôn ngàn vạn kiếp béo phì
Gieo nhân thường mạng đến thì kiếp này
Ăn chay sửa tánh thẳng ngay
Tạm dùng dưa muối mặc ai chê cười
Ăn chay khỏi bệnh tiểu đường
Ăn chay nhức khớp khỏi vương theo mình
Ăn chay là cứu sanh linh
Ăn chay là hết nghiệp hình về sau
Ăn chay trị huyết áp cao
Ăn chay bao tử không cào bên trong
Ăn chay làm phước sửa lòng
Thanh tâm thanh tịnh thoát vòng oan khiên
Ăn chay hết bệnh kinh niên
Tim, gan, ruột, thận bệnh yên như thuờng
Dù cho bệnh nặng phải vương
Ăn chay lọc huyết máu càng lưu thông
Người gầy ốm yếu lại mong
Ăn chay đỏ thắm người càng đẹp ra
Tiểu đường lên máu bệnh đa
Ăn chay đổi máu khỏi ra tốn tiền
U nang cùng với viêm xoang
Ăn chay hết bệnh vậy thì mới tin
Ăn chay chữa bệnh tài tình
Loãng xương tuột máu không còn trong thân
Máu lên xây xẩm tay chân
Đầu quay mặt choáng uớt đầm mồ hôi
Ăn chay niệm Phật biết rồi
Không còn bệnh tật nhả nhồi ở thân
Ăn chay đổi máu muôn phần
Bệnh xuyễn, sỏi mật cũng dần tiêu tan
Ăn chay trị được bệnh gan
Dù cho cổ trướng cũng liền biến mau
Ăn chay không có bệnh đau
Bởi vì không có vi trùng chúng sanh
Không có máu thịt hôi tanh
Không thêm độc tố ký sinh hại người
Ăn chay giải độc trong thân
Cái thanh ta giữ trượt thì tống ra
Xác thân như ngọc như ngà
Khai tâm huệ mở, Phật đà đâu xa
Ăn chay chơn điển hài hòa
Gần chơn Bồ Tát xa lìa quỷ ma
Ăn chay phước đức hà sa
Ăn chay niệm Phật qua cơn hiểm nghèo
Ăn chay Thần Thánh hộ theo
Độ đưa đến chốc đắc thành Như Lai
Phong Thần có một không hai
Hạ ngươn mạt pháp Ta nay xuống bài
Sử trao tu học mỗi ngày
Đề thi có sẵn đính bài chờ danh
Kỳ này mau dự cho nhanh
Để không còn kịp mất danh một đời
Uổng đi một kiếp có thân
Mất rồi biết đến mấy ngàn tái sanh
Tái sanh lẩn quẩn, loanh quanh
Thú cầm ngọa quỷ bị hành ngục môn
Mất đi một kiếp khó tồn
Hiện giờ có xác tỉnh hồn để tu
Kỳ ba xả tội tha người
Kỳ ba mở hội chọn người hiền lương
Kỳ ba Phật Thánh mở đường
Đề thi có sẵn chọn trường để thi
Phong Thần tên tuổi đã ghi
Y như điều kiện chắc thì đậu ngay
Lời Phật nói một không hai
Ai người ghi sớm Ta cho đắc thành
Quan Âm cứu khổ đã đề
Phong Thần tái bản cứu người trần gian
Lời thề chứng có Thiên Hoàng
Tu như bảng dự đắc thành chẳng sai
Nếu không chứng đắc như ngày
Ta thề không xứng Phong Thần Quan Âm
Thích Ca Phật thuyết chẳng lầm
Ai tu theo đúng Phong Thần đã ghi
Nếu không đắc đạo một khi
Ta không chánh giác Thích Ca kiếp này
Phong Thần tái bản kỳ ba
Thích Ca thuyết pháp Đạt Ma ghi lời
Quan Âm nước mắt nhỏ rơi
Phong Thần hạ bút cứu đời hạ ngươn.

12h dứt điển ngày 23/04 AL 2009 Linh Lan ghi lời.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Phong Thần Quan Thế Âm Bồ Tát
 Con Nguyễn Thị Linh Lan và Nguyễn Thị Linh Chi Thành tâm cầu xin 10 Phương Phật 10 Phương Pháp 10 Tăng Cùng đại lực của Phong Thần Quan Thế Âm cứu độ cho tất cả chúng sanh gặp được bản Phong Thần này đọc xong phát tâm tu đúng hành y, theo lời Mẹ dạy. Tôi cũng xin hồi hướng công đức này khắp cùng 3 giới, 4 loài chúng sanh phát tâm hướng về Phong Thần. Kính chúc quý đồng đạo xem rồi đừng bỏ qua và tryền cho nhiều người. Kính chúc quý bạn sẽ đạt thành chánh đẳng, chánh giác. Tôi 2 bạn Linh Lan, Linh Chi sẽ đem hết sức mình vì cha mẹ, vì đạo pháp ngày nay bằng sự chánh niệm và chánh đạo 3 giờ ngày 23/04 AL 2009.

Thứ Năm, 8 tháng 6, 2017

Ăn Chay Và Sức Khỏe

Ăn Chay và Sức Khỏe

Đấng Thượng Đế hóa sanh vạn vật
Ông cha hiền một bực tối cao
Thương yêu con cái bằng nhau
Đứa ngu, đứa xấu, dạt dào thương hơn
May làm người khôn hơn loài vật
Phải từ bi, phải thật công bình
Mỗi sinh vật, một chơn linh
Sát sanh hại vật, Thiên Đình tội căn
Lòng nhân ái lời răn Từ Phụ
Hãy thương yêu cầm thú hiền hòa
Dù cho hình vóc khác xa
Con người, con thú đều là anh, em
Người khôn ngoan, thú xem khờ dại
Ỷ mạnh, người sát hại em nhà
Thú cầm chỉ khác chúng ta
Là chúng không thể nói ra tiếng người
Nhưng chúng có đủ đầy cảm giác
Cũng biết ăn, biết khát, biết đau
Vui, buồn, thương, ghét, hận, sầu
Ham sống, sợ chết giống nhau như người
Khi mọi người vui cười thưởng thức
Rượu thịt đầy chứa chất máu tanh
Thức ăn khoái khẩu riêng mình
Mấy ai nghĩ đến cảnh tình thảm thương
Loài động vật ngàn muôn bị giết
Tiếng thất thanh thảm thiết kêu la
Đập đầu, cắt cổ, lột da
Cách đối xử con người tồi tệ
Đớn đau, oằn oại, khiếp kinh
Đều là những cảnh hãi hùng dã man
Hờn kia oán nọ, ngàn năm luân hồi
Kẻ ăn thịt là người cố sát
Không trực tiếp cầm dao chém giết
Ăn thịt là gián tiếp sát sanh
Đừng sát sanh, giữ tròn chay lạt
Người trường chay, thân xác khiết thanh
Tâm thần minh mẫn, hiền lành
Làm điều nhân ái, dứt lần nghiệp căn
Hạnh từ bi, người hằng thực hiện
Đức hiếu sinh, lòng thiện người gìn
Địa cầu cung ứng cho mình
Thức ăn vô tội, dưỡng sinh dồi dào.

Thánh Giáo Phật Mẫu

Thánh Giáo Phật Mẫu

Cuộc biến chuyển vẫn còn biến chuyển
Tuồng tang thương diễn tiến không ngừng
Xưa nay nữ liệt tài nhân
Vì danh với lợi và thân buộc ràng
Đã trót sanh, trần gian cõi tạm
Mang hình hài trong đám nữ nhi
Đời con phải có những gì
Hiến dâng Đức Mẹ một khi trở về
Cho khỏi thẹn lời thề năm ấy
Khi chào đời mang lấy vào thân
Đến khi con xuống hồng trần
Mêng mang nhục thể nội phần khó khăn
Cực hơn đám nam nhân mọi mặt
Về tề gia xắp đặt ngoài trong
Con thơ một đám ròng ròng
Cửa nhà đủ thiếu từ trong đến ngoài
Con ngày tháng trở xoay mọi mặt
Con phận hèn đầu tắt mặt đèn
Nông phu tay lắm chân phèn
Quanh năm suốt tháng đua chen với đời
Có ai đở khuyên lời đạo đức
Rằng tôi còn nghèo cực long đong
Chừng nào gia đạo vẹn xong
Các con nên vợ nên chồng sẽ hay
Đến chừng ấy bắt tay hành Đạo
Để mà lo thiên bảo kỳ thân
Giờ này lại vướng nợ nần
Tiền vay bạc hỏi khó khăn đến chùa
Đứa khá giả có chừa vật chất
Nghe lời khuyên đạo đức thì rằng
Bị nhiều công xưởng tứ giăng
Nào thầy nào thợ công ăn việc làm
Nếu đi lo việc chùa chiền
Việc nhà bê trể xóm giềng chê bai
Nào tại bị tại vầy tại nọ
Tại vì đây bị đó lăng xăng
Bao nhiêu hãng xưởng tứ giăng
Bao nhiêu sự nghiệp chưa an cuộc đời
Tội nghiệp con đây lời Mẹ dặn
Kìa vô thường đâu lại hẹn ai
Đầu hôm hoặc buổi sớm mai
Tháng này ngày khác có ai biết tường
Khi tử thần vô thường muốn dắt
Hẹn được chăng tôi mắc việc này
Hỡi các con lo âu vun vén
Ráng lo đừng hẹn ngày mai
Đạo đời cùng gánh hai vai
Dầu cho có thác ngày mai đi về
Có vốn luyến dựa về bên cạnh
Do lòng con tu chánh tu chơn
Lòng đừng tính thiệt so hơn
Giàu nghèo đủ thiếu dễ lờn nghe con.

Thứ Tư, 7 tháng 6, 2017

Lời Vàng Tiếng Ngọc Của Đức Hộ Pháp

Lời Vàng Tiếng Ngọc Đức Hộ Pháp Tại Kiêm Biên.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

 Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang
Thánh Giáo Thầy Dạy Trò
Cảnh trời chiều gió đưa hiu hắt
Làm cho Thầy ruột thắt gan bào.
Nhìn cuộc đời quặn thắt lòng đau
Thương thiên hạ bốn bề sóng dập
Cuộc tuần hườn phạt kẻ bạo tàn
Bảo vệ kẻ hiền lương nhơn đức
Nay Thầy đây xuống thế dọn đường
Mới ngỏ hầu dắt kẻ hiền lương
Đời cùng mới sanh ra biến chuyển
Sắp đến ngày mạt hạ từ đây
Chuyện đời luân chuyển vẫn xoay
Lập ngươn hạ công đồng thưởng phạt
Phật, Thánh, Tiên ra đời rải rác
Nên Thầy khuyên bổn chót sau nầy
Nhơn gởi đến gần xa bổn Đạo
Mấy lời vàng Thầy đây dạy bảo
Cho xa gần lớn nhỏ đều hay
Kể từ ngày tớ nọ xa
Thầy lìa tớ bơ vơ cảnh lạ
Tớ với Thầy phân chia đôi ngả
Nhớ tình thương giọt lệ thâm bâu
Thân của Thầy mưa gió dãi dầu
Nào có kể chông gai rừng bụi
Bởi đời đã hạ ngươn cùng cuối
Cho nên Thầy dời đổi nơi xa
Phổ độ đời chỉ rõ chánh tà
Dắt dân chúng lánh xa trần khổ
Xem kệ sám sao không biết hỗ
Phải phục cầu Đạo cả chúng sanh
Tầm Tiên cảnh tục xa trần
Mới tránh khỏi luân hồi lục
Đạo ráng nhìn xem luân hồi quả báo
Nơi trần gian thưởng phạt công bình
Thấy mà ghê sao chẳng giữ mình
Mê say đắm trong trường danh lợi
Thầy đã kêu chúng sanh ơi hỡi
Thức cho mau tầm Đạo thoát thân
Một kiếp đời sống thác hầu gần
Nếu chậm trể ngàn năm khó gặp
Khuyên chúng sanh tu hành gấp gấp
Mới kịp kỳ khai hội Long Hoa
Nhờ ơn trên sắc lệnh Di Đà
Mới rõ đặng đường về Tiên Phật
Mà phũ phàng hai chữ hiếu trung
Ôi ! Nghĩ mà hổ thẹn vô cùng
Cho cái kiếp của những người bạc Đạo
Tham sự sống quên lời Thánh Giáo
Hại với nhau ham mến sang giàu
Đàng vội quên tâm đức phụ phàng
Chẳng có nhớ ơn sanh dưỡng dục
Loài cây cỏ sánh cầm lục súc
Ấy là loài vô giác vô tri
Nếu loài người phải biết sánh bì
Nó còn biết làm tròn bổn phận
Huống chi người mãi mê tranh lấn
Giết cùng nhau giành giựt miếng ăn
Ngày cùng đêm lo liệu lăng xăng
Nào có ai lo mốc Đạo Trời
Dạy hết hơi lời khô tiếng ráo
Mà sao đời còn đắm còn mê
Tranh cùng nhau sanh biến ê chề
Nghĩ mà tức thân người vàng ngọc
Lắm những kẻ tâm ra ngu ngốc
Chẳng biết gì đến phận mày râu
Mảng mê ngọc các đài lầu
Mãi vui chơi đó là phỉ dạ
Vì ham ăn mà quên đạo cả
Lo xác thân tiền bạc là hơn
Ôi ! Thầy kêu réo tợ đờn
Phải ấu trĩ thiệt hơn vì nhỏ
Nay thành nhơn rồi đến lão già
Cái kiếp sanh chẳng sớm thì chầy
Cũng phải chết trường sanh sao đặng
Nghĩ mà chán cuộc đời cay đắng
Sự sống còn thắm thoát thoi đưa
Quá nung nịu một kiếp sống thừa
Cứ quanh quẩn rồi chung cuộc
Chữ công danh sau này nhơ nhuốc
Chết danh còn kẻ thị người khinh
Ấy là cái chết của mình vô đạo đức
Ngó gương xưa suy tầm sẽ thấy
Bực Thánh Hiền để táng suy ngoa
Lúc sanh tiền phân biệt chánh tà
Nay mới đặng sùng tu miếu võ
Nếu toàn người nghe đây chỉ rõ
Ráng tu hành tập tánh theo xưa
Đừng học theo vạn vật sống thừa
Mà uổng kiếp mày râu vô đạo
Vì mới thương Thầy đây chỉ giáo
Cho xa gần lớn nhỏ đều hay
Xin chư nhu ráng nhớ lời Thầy
Làm cho đúng lời Thầy dạy
Dầu xa gần cũng đừng sửa cải
Coi như Thầy trước mặt luôn luôn
Chẳng nên thù gây oán hận hờn
Bớt thương nhớ cho Thầy yên dạ
Nơi xứ xa Thầy truyền Đạo cả
Đặng độ người chư thức còn mê
Nên Thầy đây chưa định trở về
Xin bổn Đạo bớt lòng trông đợi
Thầy đề thơ về nhà thăm gởi
Chúc tín đồ lớn nhỏ gần xa
Chịu khổ lao bền bỉ vậy mà
Lo tu niệm cho tròn việc Đạo
Tín đồ ơi ! Hết lòng dạy bảo
Ráng mà nghe theo lời dạy của Thầy
Nếu trễ chầy ngàn năm khó gặp
Nay gặp Thầy chỉ dạy đường tu
Thầy ráng vui lòng để dắt đứa mù
Đặng chỉ dạy đường tu nẻo thẳng
Phải ráng tu sau nầy hưởng phước
Đừng nghi ngờ tội lỗi dân ôi
Gặp tu hành mình mới rõ mùi
Linh hồn nhẹ nhàng mới đặng vui
Dầu tu có gặp trăm Thầy
Cũng ghi nhớ tầm câu chánh Đạo
Chớ có bội sư phản đạo
Mình thuận Thầy vì Đạo mà lo
Để mắt trông lừa lọc thăm dò
Kẻo lầm giả tu mà mang hại
Học Thánh nhơn lòng phàm sửa cải
Dạ từ bi bác ái làm theo
Chậm Đạo sau phải bị mang nghèo
Ngày chung cuộc xác hồn tiêu mất
Mà hỏi coi tường tận giả chơn
Hể chánh tâm học Đạo chi sờn
Dầu khổ cực chung đường cũng chịu
Nhờ khổ lao mới qua khổ hải
Giải tiêu trừ mới đặng thành công
Thầy cạn phân nhớ vào lòng
Người tu niệm thường hay mắc nạn
Kẻ làm ơn thì là mắc oán
Rồi ta đây biết liệu làm sao
Thiệt tu hành lao khổ cách nào
Công nôi chí mới tu cao thượng
Mới kể đặng về cảnh Phật non Tiên
Nếu tu hành họa đừng phiền
Gặp hoạn nạn mới nhiều công quả
Vàng vào lửa biết vàng cao giá
Có quỷ ma mới có Phật Tiên
Gặp ác nhơn phân biệt thiện lương
Nếu chẳng có sau ra riêng biệt
Thầy phân rành cho đời hiểu biết
Luật tuần hườn quả trả trần gian
Việc tu hành phải xét cho toàn
Thì mới biết thi ân mắc oán
Kẻ tu hành thuớng hay mắc nạn
Ấy chẳng qua quả báo tiền duyên
Thì nghiệp chướng của ta tiêu hết
Đã tu hành mà còn sợ chết
Vì khổ lao quả vị mới nên
Hễ tu hành tâm chí cho bền
Gặp cảnh khổ làm lơ mới lạ
Dầu đau đớn ấy là nhồi quả
Ráng tu hành sau mới thành công
Dầu cho ai mắng chửi mặc lòng
Phải bố đức thi ân đáp lại
Thầy dạy khuyên thì đừng cho sái
Sái với người thì oán với ta
Thì sau này khổ vậy mà
Mới chấm dứt hại người tu niệm
Ấy là người đại ân khó kiếm
Đừng tưởng lầm kẻ nghịch cùng ta
Bất luận người ngoài hay ở nhà
Hay đốn phá là thầy ta đó
Có người ghét sao ta càng tỏ
Nhờ ác nhơn mới rõ giả chơn
Phận tu hành lao khổ chi sờn
Đừng hờn giận mới là chánh Đạo
Bực tu hành phải xem quả báo
Đừng gây thù gây oán với ai
Ráng gìn tâm nhớ Đạo hằng ngày
Và tội phước lọc lừa nhiều bận
Học sao cho đặng trăm chữ nhẫn
Thì trong đời vạn sự bình an
Đừng oán thù những việc bạo tàn
Vì đó mà mình trong sạch
Lại đừng mừng giận mới hay
Hãy nhớ nghe lời dặn của Thầy
Coi người ấy là ơn ta vậy
Từ vô đây thấy ta tạo quấy
Gặp đến ngày gươm hạ trả vay
Kiếp trần gian vay trả hoài hoài
Nơi bể khổ trăm năm thảm đạm
Hãy nghe kinh cùng là với sám
Sớm tu hành hôi ngộ ăn năn
Dầu ai phá Đạo ráng dằn
Thì muôn kiếp nợ trần cho chịu
Khuyên bá tánh ráng mà rõ hiểu
Nhờ kẻ ấy ta mới đặng thành công
Giữ từ đây bác ái đại đồng
Lòng thương kẻ tạo sầu mà vậy
Ráng mà suy xét tận tường
Thì kẻ đó làm cho ta trong sạch
Lại còn mừng tội lỗi mau tiêu
Rửa sạch lòng chẳng sớm thì chiều
Thì mới là đáng công danh thanh toại
Giữ sau đây cũng đừng làm sai
Việc tu hành cay đắng biết bao
Nếu không cho loài quỉ xen vào
Đâu có đặng làm nên Tiên Phật
Những lòng phàm xưa kia dẹp cất
Tu hành cho quả vị mới cao
Nói tới đây gan ruột héo xào
Ít có kẻ làm theo cho đặng
Những lời vàng Thầy đây chỉ bảo
Trong bổn Đạo phải ráng nghe lời
Cuộc tuần hoàn thưởng phạt nhiều nơi
Phải chịu cực thì tu chặt dạ
Dầu thế nào đừng phai chí cả
Cũng có ngày thầy tớ gặp nhau
Dầu cho Thầy xa cách phương nào
Ráng mà nhớ lời Thầy căn dặn
Thân của Thầy cay đắng biết bao
Gánh nặng nề tội lỗi nhơn dân
Mười phần Thầy gánh tám phần
Còn chút đỉnh ráng làm cho đặng
Dầu trên Thầy gian nguy cay đắng
Chẳng bao ngày đó bổn Đạo ơi !
Thương chúng sanh Thầy chẳng an ngồi
Nay mượn bút tay về chỉ dạy
Nếu tà tâm mà còn sửa cãi
Không sửa lời ắt khó gặp nhau
Thầy nhớ quê nhà gan ruột héo xào
Ấy là lắm kẻ theo lời bạc
Đạo Gởi văn thơ lời khô tiếng ráo
Ráng tu hành các bổn Đạo ơi !
Đừng làm cho mối Đạo suy đồi
Sau tớ Thầy khó mong hội hiệp
Ráng tu hành cho kịp Long Hoa
Ngày hội sắp đến đây mà
Thôi sơ lời hơn thiệt của Thầy
Khuyên bổn Đạo cận ngày lắm đó.

Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

Nhẫn Thì An

Nhẫn Thì An

Hôm nay ngày 01 tháng 08 năm Ất Dậu, Thầy sẽ giảng cho quí vị một thời giảng với tựa là " Nhẫn thì an " Phật đã thành Phật nhờ tu hạnh nhẫn nhục, gia bình có bình yên cũng cần có nhẫn nhục, sự sống con người đem đến niềm vui cho nhau cũng từ nhẫn nhục. Nhẫn nhục là pháp tu quan trọng nhất, cần thiết nhất, đệ tử Phật cần phải tu tập. Trong dòng đời con người thường sống bằng sự tạo nghiệp nếu dễ nóng nảy, buồn phiền, giận hờn, làm khổ lẫn nhau. Từ mê chấp sanh phiền não rồi tham lam, ganh ghét là những nhân tố làm đau khổ cho nhau. Vì vậy muốn an thì phải nhẫn. Đây là điều quan trọng mà Phật tử cần hiểu rõ.
 Muốn nhẫn thì an 
 Đã nhẫn thì an 
 Không nhẫn thì không an.
 Vợ chồng có thương nhau cho lắm, có duyên nợ nhau thật nhiều nhưng nếu không nhẫn thì không an, ông nóng bà nhẫn thì an, bà nóng ông nhẫn thì an.
 Đối trị lòng sân hận  
Phật dạy pháp nhẫn nhục 
 Một pháp môn vi diệu 
 Tận diệt sự hận thù 
 Trên đời này do không nhẫn, do hận thù mà con người sát phạt lẫn nhau ghê gớm, để rồi con người làm khổ con người. Hãy khảo sát về pháp nhẫn để biết đường tu.
Tu là gì ? Tu là sửa đổi, tu là chuyển hóa nghiệp chướng. Gia đình mà lộn xộn, không đầm ấm, không có niềm vui là gia đình đầy nghiệp chướng. Con người sống không có niềm vui, không có an là người đầy nghiệp chướng. Có an là nhẹ nghiệp, không an là nặng nghiệp. Muốn an phải hóa giải nghiệp, hóa giải tâm giận hờn, tâm hận thù, tâm ác nơi lòng ta. Người ta nói nặng đừng cố chấp, đừng hận thù thì tâm an nên không gây tội lỗi. Nhẫn là điều quan trọng.
 Nhẫn nhục hay an nhẫn 
 Là chịu đựng chịu khó 
 Gặp khó khăn chướng ngại 
 Không than oán, phiền não 
Không có gì an bằng nhẫn, không có gì đẹp bằng đạo đức. Đạo đức là cái cao quý của con người.

1. Vô sanh nhẫn : 
 Trực nhận được lẽ thật 
 Không còn chấp mình người 
 Không buồn giận, phiền than 
 Gọi là vô sanh nhẫn.

2. Tịch diệt nhẫn : Tâm không sanh không diệt, tâm chứng ngộ chân lý, thanh thản, bình yên, sống đời tự tại, giẫm đạp lên thuận nghịch, khen chê, tịch diệt là Niết Bàn ở cõi thế, không có ngã, không có ta, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
Tịch diệt nhẫn là trí nhẫn. 
 Sáng suốt mà chịu đựng 
 Muôn ngàn điều cay đắng 
 Do chúng sanh gây tạo 
 Được gọi là trí nhẫn 
 Nhẫn nhục ba la mật
 Thân, khẩu, tâm trong sạch 
 Nhẫn không thấy mình nhẫn 
 Và cả vật để nhẫn. 
 Từng bước ta nhẫn. Nhẫn từ thấp đến cao là thành Phật, Đức Phật đã nói " Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành". Phải tu nhẫn để thành Phật về sau. Đã có duyên gặp Phật, gặp pháp, gặp Thầy phải tăng thượng duyên để được thành Phật. Lấy nhẫn làm đầu, lấy nhẫn làm an, lấy nhẫn làm sự sống, lấy nhẫn làm hạnh phúc.
 Nhẫn là thuyền vững chắc 
 Giúp ta vượt sóng gió
 Nhẫn là nước cam lồ 
 Rưới tắt lửa tham sân 
 Nhẫn là vĩ thuốc hay 
Cứu bệnh trong cơn nguy 
 Nhẫn là tạng kho báu 
 Chứa giữ các công đức 
 Người tu hành nhẫn nhục 
 Tập tính giống như nước 
 Thường mềm dẻo mát dịu 
 Rộng lượng và khoan dung. 
 Nước mát dịu, nước lợi ích, hãy tập tánh giống như nước. Tâm mát là có nhẫn, tâm nóng có sóng gió.
 Nhẫn nhục như hòn đất 
 Dù sạch dơ đổ lên 
 Không tỏ chút giận hờn 
 Đất bằng hay nhẫn nhục. 
Bậc trí huệ nhập đạo 
 Thường vui vẻ nhận lãnh 
 Sự chửi mắng cay độc 
 Như uống nước cam lồ. 
 Trên lộ trình tu phải giẫm đạp lên đạo nghịch. Phải bị người chửi, người chửi mà không giận mới là người tu thiệt.
 Khen chê thương ghét mặc người 
 Từ bi hỹ xã nơi nơi rãi đều 
 Mưa trời nào nệ trong rêu 
 Tâm từ vô lượng rãi đều chúng sanh. 
 Nhẫn thì an, nhẫn để tìm sự giác ngộ. Muốn đắc đạo thì phải nhẫn. Người đắc đạo không động niệm cố chấp chuyện bên ngoài, chuyện bên ngoài là của người, chuyện của ta là phải nhẫn.
 Nhẫn nhục hạnh an ổn 
 Khắc phục được hận thù 
 Tiêu trừ các tai nạn 
 Hưởng nhân quả sâu xa. 
 Nhẫn thì an ổn, kẻ thù không có, tâm linh thăng hoa và dần dần thâm nhập Phật đạo.
 Nhờ tu hạnh nhẫn nhục 
 Lửa sân được dập tắt 
 Dục vọng chẳng hoành hành 
 Căn lành được nuôi lớn. 
 Nhờ nhẫn mà không còn giận nữa, bao nhiêu dục vọng không còn hoành hành. Nhẫn bên ngoài và nhẫn luôn trong lòng. Bên ngoài thì nhẫn với người, bên trong thì nhẫn với lòng mình. Quan trọng là nhẫn cái nghiệp của ta. Bên ngoài nhẫn được mà bên trong không nhẫn thì tâm chưa an.
 Nhờ tu hạnh nhẫn nhục 
 Gia đình được sum họp 
 Bạn hữu được tương thân 
 Tớ thầy được tín 
 Lòng từ được tăng trưởng 
 Trí đức được nâng cao 
 Đạo mầu ngày tỏ rạng. 
 Nhẫn nhục là trí có đức, lòng từ có và gần được với đạo. Toàn thể chư hành giả hôm nay hãy tập tu " nhẫn thì an ".

1. Thân nhẫn : dù cảnh nắng, mưa, nóng, lạnh. Dù bị người đánh đập hay trạm trán với bao nhiêu việc khó khăn mà thân này vẫn có sức chịu đựng. Biết thân là giả tạm, khi gặp điều khó khăn chướng ngại chỉ cần nhẫn là an. Sống như vậy để không làm khổ mình. Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia từ đây dứt. Phải có mắt huệ nhìn rõ lẽ thật để tạo sự bình an.

2. Khẩu nhẫn :
 Sự nhục mạ chua cay 
 Hoặc mắng nhiếc tồi tệ 
 Cam chịu không chửi lại 
 Được gọi là khẩu nhẫn ". 
 Thần khẩu hại xác phàm " đừng để cái khẩu tạo nên nghiệp chướng, nên tập khẩu nhẫn. Có người nọ chửi ông kia thật nhiều nhưng ông giữ tâm thanh thản bình yên không có lời nói nặng lại, vì biết rõ rằng lời nói chỉ là phương tiện không thật. Hạnh phúc cũng từ cái miệng, phước đức cũng từ cái miệng, tội lỗi cũng từ cái miệng. Muốn bình yên phải tu cái miệng. Ai có nói nặng nhẹ thì cảm nhận lời nói không thật, không chấp nên không khổ. Chấp nhiều thì khổ nhiều, chấp nhiều là nặng nghiệp.
 Ác nghiệp làm ta khổ 
 Phước nghiệp làm ta vui 
 Khi ta bỏ thân này 
 Nghiệp theo sát bên ta. 
 Ta không sợ ai, chỉ sợ ác nghiệp của lòng ta. Nghiệp từ cái miệng thì quả cũng trổ từ cái miệng, thường nói lời ác. Nếu không tu cái miệng, thường nói lời ác, sau này sẽ bị quả báo sứt môi, câm ngọng. Phải nhẫn ở cái miệng để có lời nói thanh cao, êm dịu và phước đức. Nghe người nói nặng, trách hờn mà không cãi lại là nhẫn cái miệng. Vợ chồng thương nhau lắm mà không nhẫn cái miệng nên gọi là khắc khẩu. Chúng ta là người phàm sống bằng thân trần tục nên có lúc còn nóng giận, nặng lời. Muốn cho gia đình êm ấm, hòa, thuận thì phải nhẫn, lỡ ông nóng thì bà nhịn, bà nóng thì ống nhẫn. Đó là cách sống để tạo sự ấm áp trong gia đình. An ổn do sự nhẫn nại của con người. Muốn bình yên phải học hạnh nhẫn nhục.

Tại sao là nhẫn nhục ? Nhẫn là có nhục, nhẫn mà không nhục. Thế nào là nhẫn mà có nhục ? Phần đông con người sống bằng phàm nên lấy ngũ dục, lấy danh vọng, lấy lợi đường làm trọng. Do thấy có ngã, có ta nên kẹp về danh về lợi. Mỗi lần nhẫn cảm thấy cái nhục nhiều hơn. Từ đó hận thù nhiều hơn. Trả đũa nhiều hơn, tội lỗi theo đó cũng nhiều hơn. Nhẫn mà không nhục là thấy có tội, thật sự cái gì là tội. Thân này rồi đây sẽ nằm dưới ba tấc đất.
 Không bao lâu thân này 
 Sẽ nằm dài trên đất 
 Bị vứt bỏ vô thức 
 Như khúc cây vô dụng. 
 Cái suy nghĩ cũng đâu thật là tôi. Lúc suy nghĩ này, lúc suy nghĩ khác.
 Căn trần thức duyên hợp
 Ý tưởng liền sanh khởi
 Tâm vô thường xuất hiện
 Chẳng phải thật tâm mình.
 Do thấy có tôi mà có nhục, hãy nhìn thật xa không thấy có mình thì không có nhục.
 Mạng sống của chúng ta 
 Sớm còn tối lại mất 
 Chỉ trong khoảng sát na 
 Là đã qua đời khác 
 Thân là không thật nên gọi tạm của tôi. Người ta có nói nặng, không thấy tôi thì ai giận, ai tức, ai đau khổ. Nhẫn mà không nhục mới là hay.
Trong nhẫn có 3 cái nhẫn : Nói lời phiền trách người là có nghiệp, lâu ngày thành thói quen gọi là khẩu nghiệp xấu.

1. Ý nhẫn : Người đời thường nhẫn cái thân, nhẫn cái miệng nhưng ý khó nhẫn. 
Đối trước mọi nghịch cảnh 
 Không khởi tâm phản đối 
 Không căm hờn oán hận 
 Được gọi là ý nhẫn. 
 Thân nhẫn, khẩu nhẫn, ý nhẫn thì không có kẻ thù.
 Kẻ thù hại kẻ thù 
 Oan gia hại oan gia 
 Không bằng tâm tà vạy 
 Gây ác hại chính ta. 
 Nhịn nhịn nhịn, ngàn muôn tai họa đồng thời tiêu. Nhẫn một chút, sóng yên gió lặng, lùi một bước, biển rộng trời cao. Muốn được bình yên thì phải tập nhẫn.

2. Sanh nhẫn :
 Chúng sanh hoành hành ta 
 Ta sẵn sàng cam chịu 
 Không tỏ chút hận thù 
 Được gọi là sanh nhẫn 
 Nhẫn nhục đối với con người, đối với con thú. Con người dữ quá mình phải nhẫn, nhẫn nhịn từng lời nói của con người. Nhẫn để yên, nhẫn để tu. Sanh nhẫn là nhẫn với con người và chúng sanh trong pháp giới

3. Pháp nhẫn :
 Cảnh nắng, mưa, gió, lạnh 
 Hoành hành cuộc đời ta 
 Cam chịu không than phiền 
 Được gọi là pháp nhẫn.

Địa Mẫu Chơn Kinh

Địa - Mẫu Chơn Kinh
Ngũ Cốc Diệu Kinh. Nhãn Quang Kinh. Chánh Văn và Giảng Nghĩa. Dâng Hương Khói hương xông thấu mấy từng xanh Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành Trên khói hương nàx xin Mẫu ngự Chứng minh con trẻ lòng thành ( Nam mô hương cúng đường Phật Mẫu chứng minh ).
Lễ Phật Kính lạy Phật từ bi quảng đại Vì chúng sanh muôn loại đảo điên Luân hồi khổ não triền miên Mới dùng phương pháp giai phiền nơi tâm Lễ Pháp Kính lạy Pháp nguồn an chưa trả Nẻo quang minh mô tả rõ ràng Vì đời lắm kẻ lầm than Nên thuyền Bát Nhã sẵn sàng thoi đưa.
Lễ Tăng Kính lạy tăng làngười chí cả Thay ThếTôn hoằng hóa đạo mầu Vô minh nên mới lo âu Rọi đường cứu khổ dẫn đường chúng sanh Con nhất tâm đành lễ cầu Hoàng Mẫu Cứu độ chúng sanh ( 1 lạy )
Con nhất tâm đảnh lễ Phổ Đà Sơn Nam Hải chứng minh ( 1 lạy )
Nam mô Tam Bảo ĐạoTràng chứng minh ( 1 lạy )
Nam mô con nhứt tâm đảnh lễ tổ thầy chứng minh ( 1 lạy )
. Phục Nguyên Hoành Mẫu chơn kính, cầu nguyện tam cõi cộng Đồng Thánh, Thần, Tiên, Phật nghe nguyện Nầy xin vui hỷ lạc thanh tịnh trang nghiêm Cầu cho quốc thới dân an, thế giới thái bình an lạc xứ ( 1lạy ).
Lạy cho chúng sanh nhơn loại được ấm no. Phước Lộc Thọ đủ đầy,thoát ách tiêu tan. Nạn khỏi tật bệnh tiêu trừ( 1 lạy ). Cầu nguyện cho Phật tử nam tử trẻ già trên non dưới thế theo Mẹ tu hành tinh tấn tâm lành sáng suốt,hiếu đạo vẹn toàn với Mẹ tu cho đến ngày thành Phật đạo bất thối tâm ( 1 lạy ).
Cầu cho cửu huyền thất tổ, ông bà cha mẹ lục thân quyến thuộc, âm siêu dương thới. Đặng nghe lời của Mẫu dứt tâm mê muội xa lìa tội ác, hồn linh siêu thoát sớm về nơi Tây Vức, an vui mùi Phật đạo ( 1 lạy ).
Thành tâm khẩn nguyện, nhờ oai linh nhiệm màu của Mẫu, Kim Quang Văn, chuyện gia đình hưng thạnh quyến thuộc tăng phước viên Phước LộcThọ miên trường sở nguyện cầu như ý ( 1 lạy ).
Nam mô Phật Mẫu chứng minh ( 1 lạy ).
Nam mô Phổ Đà Sơn Nam Hải chứng minh ( 1 lạy ).
Nam mô Diệu trìcung, hộ Mẫu chứng minh ( 1 lạy ).
Địa Mẫu Chơn Kinh Ngũ Cốc Diệu Kinh Nhãn Quang Kinh Giảng Nghĩa Và Tụng Nghĩa. Tự Luận Quang tự cửu niên, chánh ngoạt, sơ cửu nhựt, thiểm tây, hớn trung phủ, thành cố huyện, Địa Mẫu miếu, phi loan truyền kinh. Hồi nhà Thanh, vua Quang Tự lên ngôi trị vì ở nước Tàu, năm thứ 9, nhằm tiết tháng giêng, ngày mồng chín, tại nơi tỉnh Thiểm Tây, phủ Hớn Trung, Huyện Thành Cố có Phật Địa Mẫu ngự hiện xuống tận miếu Bà giáng cơ bút truyền kinh này đây. Địa Mẫu Chơn Kinh Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh Phật Địa Mẫu ngự trên cõi Thượng Tân tối cao đặt quyển Chơn Kinh đặng khuyên răn đời, dưỡng dục đời và bảo toàn tánh mạng cho tất cả người đời.
Xuân Tán Địa Mẫu - Địa Mẫu đấng tối cao giác ngộ - Điển linh quang tế độ chúng sanh - Hỡi ai chớ có lạc lầm - Lời vàng châu ngọc chỉ rành nẻo tu -Cõi trần thế mịt mù tâm tối - Phải nghe lời Mẹ thuyết Chơn Kinh -Chớ ham vật chất lụy phiền - Sớm mau thứctỉnh Mẹ ban phước lành Nam Mô Vô Thượng Hư Vô Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh ( 3 biến ).
Cúng Hương Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh ( 3 biến )
- Đốt hương trầm thấu đến Diêu Cung - Thành tâm khẩn nguyện Đức Mẫu Từ -Trên khói hương này Kim Mẫu Ngự - Cảm ứng chứng minh tất lòng thành Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh - Khai đuốc huệ tâm đăng tỏa sáng - Trăm ngàn muôn kiếp dễ gặp đâu - Hạ ngươn kỳ ba Long Hoa Hội - Mẹ ban điển lành mới rõ thông Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh ( 3 biến ).
Sám Kinh Địa Mẫu Dâng Đăng Dâng đuốc thiêng thành tâm kính Mẫu Ngọn linh đăng soi thấu mười phương Điển quang tỏa ánh chiếu dương Cầu xin Từ MẫuTây Phương chứng đàn Mẹ giáng thế độ an non nước Chuyển huyền linh ban phước vạn dân Nguồn thương sầu đọng buâng khuâng Nhìn đăng lòng tưởng Mẹ gần bên con Xưa Mẫu ngự chim Loan tại miếu Tỉnh Thiểm Tây huyền diệu ứng linh Bút cơ Mẹ thảo tâm kinh Lời châu chép lại tâm tình Mẫu thương Nhìn biển cả trùng dương nước biếc Tiếng khổ sầu tha thiết lòng đau Mẹ trông từng lượn sóng ào Bao nhiêu sóng lượn nghẹn ngào bấy nhiêu Cảnh dương trần gặp nhiều gian khổ Mẹ khai hóa độ khắp nơi Núi sông vũ trụ đất trời Chính do Hoàng Mẫu tạo đời an vui Con trẻ nguyện sớm chiều tu niệm Ngày lẫn đêm lo kiểm hạnh Dâng đăng Mẹ chứng lòng son Vạn dân bá tánh nước non thanh bình.
Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh. Dâng Hương Ngày kỷ niệm trăng mười thập bát Gió đông về ngào ngạt nguồn thương Chốn trần trẻ dại dâng hương Thỉnh cầu Từ Mẫu Tây Phương chứng đàn Dâng nén hương lời vàng cung kỉnh Tiếng trẻ thơ nguyện thỉnh Mẹ hiền Lạy cầu vọng thấu cung Tiên Nơi Tây Vương Mẫu diệu huyền chứng minh Mẹ thương con thâm tình muôn thuở Đạo hoằng khai truyền mở khắp nơi Gắng tu thoát tục xa đời Quê Tiên chốn cũ là nơi trở về Nhìn quang cảnh sơn khê non nước Cõi giới ba huởng phuớc Mẹ ban Chính do Hoàng Mẫu chỉnh an Độ cho sanh chúng một đàng chánh tu Làn khói bạc ngút mù bay tỏa Tâm hương thành hiện rõ Diêu Cung Đài hương Mẹ ngự không trung Thức tâm kẻ thế soi chung gương hiền Tam nhựt mậu cố siêu bái Mẫu Tiếng chuông ngân gợi nỗi nhớ thương Con quỳ dâng chén tâm hương Lạy Mẹ phủ đức thập phuơng an lành.
Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng.Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh. Dâng Trầm Nhìn làn khói trầm hương bay tỏa Nhớ Mẫu hiền lệ nhỏ dòng châu Đàn con tha thiết nguyện cầu Mẫu Từ phủ điện nhiệm mầu chứng minh Chốn trần miền cung nghinh đại lễ Kỷ niệm ngày giáng thế Từ Tôn Thượng tầng Mẹ phủ càn khôn Chuyền khai hoằng đạo pháp môn hạnh từ Đọc tâm thành thăm viếng Mẫu thân Chuông chùa vang tiếng xa ngân Chạnh lòng con trẻ tuôn dần lệ sa Khói hương trầm thiết tha theo gió Áng mây lành hiện rõ huyền vi Con nguyền kiếp kiếp tu trì Nương nhờ theo bóng từ bi Mẫu Hoàng Cầu linh Mẹ chỉnh an non nước Điển Mẫu Từ ban phước chúng sanh Trần gian biết nẻo tu hàng Nhờ đèn trí huệ phúc lành Mẹ ban Tầm chánh giác đạo vàng rực rỡ Hạt bồ đề nảy nở rừng cây Am tiền nối nghiệp thang mây Điển thiêng Mẹ chứng nhựt nay kỉnh đàn. Nam Mô VôThượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh. Dâng Hoa Hoa tươi thắm kính dâng Từ Mẫu Gió hương lành nhẹ thổi mười phương Dập đầu lạy Mẹ xót thương Chứng lòng con trẻ cúng dường dâng hoa Lời vang cầu thiết tha ai oán Chốn dương trần tợ áng phù vân Chúng sanh đau khổ vô ngần Thành tâm lạy Mẹ gội lần tội xưa Ngày Kị Mậu sớm trưa bái Mẫu Tiếng chân thành vọng thấu Diêu Cung Gắng tu noi chí bá tùng Bồ đề hạnh nguyện thơm chung hương lành Điển huyền linh phủ quanh bao khắp Nhớ Mẫu hiền con chấp tay cầu Lạy Mẹ độ hết năm châu Cầu xin sanh chúng sớm hầu Diêu Cung Người chốn thế hiếu trung trọn giữ Hội Long Hoa Mẫu tử tương phùng Hương lành thơm ngát lạ lùng Bồ đề rộ nở tại cung Diêu Trì Hoa thơm ngát con quỳ dâng lễ Lạy Mẫu thương giáng thế chứng minh Tay ngà dâng đóa hoa xinh Thỉnh cầu Mẹ giáng điển linh chứng đàn. Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh. Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh.
Dâng Trầm Nhìn làn khói trầm hương bay tỏa Nhớ Mẫu hiền lệ nhỏ dòng châu Đàn con tha thiết nguyện cầu Mẫu Từ phủ điện nhiệm mầu chứng minh Chốn trần miền cung nghinh đại lễ Kỷ niệm ngày giáng thếTừ Tôn Thượng tầng Mẹ phủ càn khôn Chuyền khai hoằng đạo pháp môn hạnh từ Đọc tâm thành thăm viếng Mẫu thân Chuông chùa vang tiếng xa ngân Chạnh lòng con trẻ tuôn dần lệ sa Khói hương trầm thiết tha theo gió Áng mây lành hiện rõ huyền vi Con nguyền kiếp kiếp tu trì Nương nhờ theo bóng từ bi Mẫu Hoàng Cầu linh Mẹ chỉnh an non nước Điển Mẫu Từ ban phước chúng sanh Trần gian biết nẻo tu hàng Nhờ đèn trí huệ phúc lành Mẹ ban Tầm chánh giác đạo vàng rực rỡ Hạt bồ đề nảy nở rừng cây Am tiền nối nghiệp thang mây Điển thiêng Mẹ chứng nhựt nay kỉnh đàn.
Nam Mô VôThượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh. Dâng Hoa Hoa tươi thắm kính dâng Từ Mẫu Gió hương lành nhẹ thổi mười phương Dập đầu lạy Mẹ xót thương Chứng lòng con trẻ cúng dường dâng hoa Lời vang cầu thiết tha ai oán Chốn dương trần tợ áng phù vân Chúng sanh đau khổ vô ngần Thành tâm lạy Mẹ gội lần tội xưa Ngày Kị Mậu sớm trưa bái Mẫu Tiếng chân thành vọng thấu Diêu Cung Gắng tu noi chí bá tùng Bồ đề hạnh nguyện thơm chung hương lành Điển huyền linh phủ quanh bao khắp Nhớ Mẫu hiền con chấp tay cầu Lạy Mẹ độ hết năm châu Cầu xin sanh chúng sớm hầu Diêu Cung Người chốn thế hiếu trung trọn giữ Hội Long Hoa Mẫu tử tương phùng Hương lành thơm ngát lạ lùng Bồ đề rộ nở tại cung Diêu Trì Hoa thơm ngát con quỳ dâng lễ Lạy Mẫu thương giáng thế chứng minh Tay ngà dâng đóa hoa xinh Thỉnh cầu Mẹ giáng điển linh chứng đàn.
Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn KinhNam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh Dâng Quả Quả tươi xanh tâm thành cung kính Tiếng trẻ khờ nguyện thỉnh Từ Tôn Điển linh phủ khắp càn khôn Chuyển khai đại đạo tiếng dồn vang xa Tụng kinh Mẫu gia gia an ổn Mạ giáng trần hỗn độn sơ khai Lời châu ghi lại trần ai Là do huyết mạch phi tài Từ Tôn Oai linh Mẫu bao gồm vũ trụ Dưỡng nuôi con hấp thụ điển thiên Phước tài lộc thọ triền miên Dân lành nước thạnh nhà yên thanh bình Tam nhựt mậu trì kinh Địa Mẫu Chúng sanh đều số đổi nhàn thanh Mùa màng sung túc tươi xanh Quả thơm ngát hương lành từ bi Thâm ân Mẹ khắc ghi xanh sử Kỷ niệm ngày Mẹ ngự không trung Dập đầu bái tạ Vương Cung Độ an sanh chúng tao phùng Long Hoa Kính lạy Mẫu thiết tha lời trẻ Dâng quả tươi thỉnh Mẹ chứng tri Dập đầu lạy Đức Diệu Trì Điển linh Mẹ phủ cứu nguy dân lành.
Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh Dâng Thủy Cung kỉnh dâng thủy thanh thơm ngát Nhớ ngày giáng thế Mẫu Hiền Thủy thanh bát ngọc khẩn nguyền cung nghinh Đàn con trẻ quỳ xin Mẹ chứng Độ dân lành bền vững tâm tư Sơn khê rảo bước ngao du Vào nơi biển Thánh rừng nhu tu hiền Dâng thủy thơm kiền thiền vọng bái Điển Mẫu Từ phủ rải khắp nơi Mẹ thương dưỡng dục khuyên đời Ngự nơi thượng cõi ban lời ngọc châu Mẹ truyền pháp nhiệm mầu phản chiếu Cứu đàn con tận hiếu tận trung Nguồn thương Mẹ phủ ngàn trùng Suối lòng ngào ngạt ban chung con lành Chính Mẹ tạo non xanh tươi thắm Biển sông sâu thăm thẳm trùng khơi Hoằng khai đại đạo khắp nơi Kể từ vô thỉ đến đời hậu thiên Tâm kinh Mẫu lời khuyên lai láng Điển huyền linh tỏa sáng mười phương Tay dâng bát ngọc trà hương Thành tâm lạy Mẹ xót thương chứng đàn Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh.
Sám Kinh Địa Mẫu Phủ Hớn - Trung nơi huyện Thành Cố Tỉnh Thiểm Tây miếu cổ ứng linh Thượng tầng tỏa ánh quang minh Chim Loan Mẫu ngự truyền kinh răn đời Kim ngôn Mẹ đây lời mạch huyết Đức Từ Tôn tha thiết khuyên con Hiếu Trung giữ vẹn cho tròn Mẹ hiền phủ điển bảo toàn chúng sanh Tam nhựt mậu tâm thành kỉnh Mẫu Tấm lòng son vọng thấu Diêu Cung Gia gia sum họp trùng phùng Dân quốc thới hưởng chung thanh bình Mùa màng được tươi xinh sung túc Mẹ độ con từng phút từng giây Núi sông vũ trụ đó đây Chính do Hoàng Mẫu dựng gầy tạo nên Linh điển Mẹ dưới trên phân rõ Tâm chơn kinh Mẹ tỏ lời châu Hoằng khai đại đạo nhiệm mầu Hóa sanh bốn biển năm châu tươi nhuần Phật Mẫu ngự thượng từng độ thế Điển chơn linh phước huệ rải ban Tâm kinh Mẫu dạy rõ ràng Con lành hiếu thảo đàn tràng cung nghinh Phước lộc thọ hiển vinh do Mẫu Chọn đủ thời Kị Mậu hằng niên Dân an nước thạnh nhà yên Lời châu Mẫu dạy gắng chuyên tu trì Thơ thâmd iệu huyền vi cơ bút Mẹ truyền kinh dưỡng dục chúng sanh Xưa vua Bàn - Cổ phong danh Diêu Trì Kim Mẫu hóa sanh muôn loài Chơn linh Mẫu xét soi vũ trụ Điển âm dương kết tựu anh nhi Thượng tầng Mẫu ngự phương phi Phân ra thiên địa trị vìchúng sanh Địa Mẫu truyền chơn kinh tâm huyết Khí âm dương hội hiệp cùng nhau Mưa hòa gió thuận tươi màu Hóa sanh nhân loại ngạt ngào chơn thân Vậy ai mới bước lần đường đạo Phải giữ lòng hiếu thảo trì kinh Lời châu Mẹ dạy huyền linh Hoàng Thiên xá tội hiển vinh thanh nhàn Cầu linh Mẹ bảo toành sanh chúng Độ nhơn sanh giữ đúng hạnh Tiên Từ đây Thiên Địa phân riêng Âm dương chơn khí linh nguyên chẳng rời Nhựt nguyệt tinh phương trời sáng tỏa Máy huyền vi hiện rõ thần thông Mẹ phân nam bắc tây đông Bốn phương tám hướng bao vòng càn khôn Điển thiêng Mẹ bảo tồn vĩnh cửu Chốn trung ương Mẹ phủ địa châu Linh quang chiếu sáng nhiệm mầu Thiên Tiên bảo dưỡng gồm thâu nhơn lành Phu quân mẫu trường sanh bất lão Tài cao minh sáng tạo huyền vi Thiên lung địa ác diệu kỳ Tri âm phối hợp phục quy Diêu Đài Thiên Địa lập âm lai dương khứ Khí thần giao gìn giữ điển linh Đất rời do tạo hóa sinh Pháp luân chuyển siêu hình căn nguyên Chính Mẹ tạo tôi hiền chúa thánh Phủ điển linh chơn tánh tâm thanh Chẳng ngừng hóa hóa sanh sanh Thiên can thường chuyển vận hành địa chi Thần với khí tựu thì thai Thánh Mẹ cưu mang canh cánh thập niên Tình thân Mẫu tử thiêng liêng Mười thu đúng nhựt chia riêng quẻ hào Trong bát quái phân vào tám hướng Tám quẻ đo mổi hướng định ra Sáu hào một quẻ đó là Ba trăm tám bốn tẻ ra các hào Trúc cơ mãn nguyện vào giờ đúng Thập niên trường chuyển dụng Thánh Thai Minh quân xuất thế trần ai Sáu vị thiên tử phi tài huyền quang Mẹ phán vua Thiên Hoàng con trưởng Đến Địa Hoàng Mẹ thưởng thứ hai Nhơn hoàng tam đệ thiên tài Còn ba vị nữa phân rày sau đây Vua Phục Hy, ngài hay biến hóa Bát quái quân phá thọa hiển linh Chỉ rành tám hướng thinh thinh Âm dương vũ trụ quang minh phân bày Vua Thần Nông phi tài ngũ cốc Sắc lịnh gieo giống của Trời Sanh ra lúa gạo giúp đời an khang Vua Hiên Viên tạo ban y phục Đem ấm no hạnh phúc vạn dân Lưu truyền cơm áo chốn trần Để cho người thế tâm thân thanh nhàn Vũ trụ do Mẫu Hoàng xuất phát Mẫu tạo ra Bồ Tát, Thần,Tiên Thượng từng bao phủ điển thiêng Chẳng rời xa Mẫu hiền dưỡng sanh Nhìn biển cả trời thanhnước biếc Khắp bốn mùa tám tiết trở xây Gió ngàn tỏa lượn tầng mây Hóa sanh nhơn loại cỏ cây thú cầm Có ngũ nhạc bổng trầm ngân trỗi Khắp muôn nước Từ Mẫu dưỡng sanh Các đời vương đế đại danh Từ trong thân Mẫu trưởng thành mà ra Danh lam có năm tòa thắng cảnh Chốn lâm sơn tuyết lạnh sương rơi Có cây cổ thụ sống đời Sắc dân trăm họ do nơi Mẫu thành Năm giống lúa tươi xanh vun dưỡng Sáu thứ gạo dành thưởng nhơn sinh Nhân dân no ấm hiển vinh Sống nhờ điển Mẹ huyền linh phủ đầy Khi lìa thế gởi thây thân Mẫu Sự hóa sanh dời đổi vô thường Thân Mẹ là chỗ tựa nương TừTôn Địa Mẫu nguồn thương ngập tràn Nào châu quân thôn làng tỉnh huyện Kìa lâu đài cung điện nguy nga Âm chùa, quán, xá lập ra Hiền Thần, Tiên, Thánh Mẹ đà thưởng phân Chư Phật đắc kim thân do Mẫu Cả trân châu ngọc bửu đó đây Thiếu chi kẻ ước việc nầy Lòng tham mơ tưởng mấy ai đạt thành Loại kim khí bạc vàng quý báu Tất cả do Mẫu tạo xuất ra Vương hầu vạn quốc gia gia Cũng do lịnh Mẹ ban ra tôn sùng Người chốn thế hiếu trung hưởng phước Bao huyền linh sau trước Mẹ ban Dân an quốc thới thanh nhàn Đế vương cung kỉnh Mẫu Hoàng Từ Tôn Nước nào bị dập dồn chinh chiến Cũng do nơi Mẫu chuyển phạt hành Vậy ai nào biết đến danh Huyền linh quang điển Mẹ dành đó đây Có tạo lãnh the dây lụa vải Cùng quả hoa rau cải trái cây Nào là chua ngọt đắng cay Hành ớt hẹ gừng đường tiêu tỏi Hóa sanh linh dược nhiệm mầu Cao lương mĩ vị thiếu đâu vật nào Lại có giấm chanh dầu tương muối Suối nào bằng suối tình thương Lao tâm tồn huyết đoạn trường vì con Công lao Mẹ bút son tả Tình bao la biển cả khó hơn Khổ đau Từ Mẫu chẳng sờn. Nỡ nào quên đứt nghĩa ơn cho đành Vật ăn uống Mẹ dành con đó Sản phẩm do Mẹ hóa tạo ra Cân đai áo mão phù hoa Bạc tiền vật dụng biến ra hằng ngày Mẹ chẳng thấy một ai lòng tưởng Thân Mẫu sanh ban tưởng khắp nơi Vật chi chẳng xót trên đời Mẫu không nghe có một lời nhớ thương Trong vũ trụ tuần hườn tạo hóa Do Mẫu sanh ra quả địa cầu Biến dành sóng ngả luân hồi Biết bao sản vật hoa màu tốt sinh Kẻ thế đâu rõ tình thâm Mẫu Dầu Hoàng Thiên khó nổi sánh hơn Trên trời mưa đổ từng cơn Dưới đất Mẹ hóa huyền chơn phép màu Giòng mưa tuôn ngọt ngào cam lộ Ngũ cốc dành hóa độ nhơn sanh Cỏ cây tươi tốt hương thanh Địa châu thấm giọt mưa lành phì nhiêu Chính hơi nước thâu nhiều mạch huyết Bao tinh vi sương tuyết giá băng Đài mây gom tựu phủ giăng Gặp luồng quang điển biến tan mây liền Mưa tuôn xuống trần miền tỏa khắp Cù rồng kia trốn nấp ngàn sông Lãnh phần vận chuyển gió giông Mẹ truyền hoán vũ hô phong hứng hầu Cù rống ở xứ nào chẳng có Ẩn biển sâu làm gió chuyển mây Đều do lịnh Mẹ phán bày Ơn trên chiếu triệu dám rày cãi đâu Muôn thu vẫn nằm sâu lòng đất Mẹ dưỡng nuôi âm chất hoằng khai Nhọc nhằn nào quản đắng cay Điển quang huyền diệu đêm ngày dưỡng sanh Chốn dương trần con lành tọa hưởng Bao nhiệm màu Mẹ thưởng hồng ân Tất cả do lịnh Mẫu thân Công dầy chẳng thấy người trần ghi tâm Mẹ thương con dạ thầm đau thắt Chẳng bao giờ nhắm mắt nghỉ đâu Điển quang nếu Mẹ rút thâu Càn khôn vũ trụ địa cầu tiêu tan Khi cá ngao trở ngang vùng vẫy Thiên Địa đành chịu phải rả đôi Duơng trần như thể bèo trôi Cảnh đời trống rỗng thảm sầu nạn tai Ngoại càn khôn Như Lai tạm ẩn Chư Bồ Tát tàn lẫn biệt tin Từ vua chúa đến quân binh Sẽ đều tận diệt nhơn sinh điêu tàn Phương hướng đành tiêu tan tất cả Như ở trong lò hỏa bị thiêu Muôn loài vạn vật bao nhiêu Phải đành chịu cảnh quạnh hưu khổ sầu Mẹ phán truyền lời châu cao quý Ai diệu lý quang minh Tâm thành khảo sát chơn kinh Thọ trì giảng nói chúng sinh hiểu rành Từ Tôn chiếu điển lành ban phước Sắc phê người được hiển vinh Phi tài huyền diệu cao minh Mẫu từ giáng bút ngọc linh chi truyền Nhập vào tâm kẻ hiền sáng suốt Chơn khí như ánh đuốc thiên nhiên Mẫu cho phản bổn hườn nguyên Chơn thần đúng ngoạt xuất liền chẳng sai Tinh khí hiệp cho ai dưỡng tánh Gắng tâm tu hưởng cảnh thượng đài Khai tâm tu trung chuyển đạo ngay Lý chơn thông hiểu chớ rày bỏ qua Cần quán tưởng sâu xa kinh Mẫu Chớ khoe tài nông nổi mà chi Chơn kinh lịnh Mẹ khó bì Quân thần văn võ chẳng khi lời vàng Đại Từ Tôn Mẫu Hoàng cao cả Ân đức dày vong ngả đành sao Tao nhân mặc khách anh hào Nông thương công sĩ nỡ nào lảng ngơ Không đền đáp tôn thờ cung kỉnh Nỡ vô tâm chẳng kính Mẫu hiền Thâm sâu nghĩa cả thiêng liêng Đành lòng bội bạc chơn truyền lời châu Chánh pháp Đạo nhiệm màu ai rõ Giả đò như chẳng tỏ ngộ chi Phụ ân Từ Mẫu Diệu Trì Đạo đầy biết rõ tánh danh Phật Mẫu Hãy lắng nghe lời Mẫu phân rành Lão Bà Hỗn Độn hóa sanh Thuở còn mù mịt trược thanh chưa tường Thiên Địa chia âm dương chơn khí Thập nhị muôn niên kỷ giáng lâm Tuổi thọ chín ngàn sáu trăm Thời gian xuất thế khổ tâm nhọc nhằn Muôn ngàn năm khuyên răn dạy dỗ Ngày biệt ly diệt độ chẳng ngờ Mẫu Hoàng từ giã con thơ Hóa thân chớp nhoáng phút giờ chia ly. Hư không ngự mây đài thượng cõi Điển quang minh chiếu rọi khắp nơi Huyền vi biến hóa chuyển đời Truyền kinh châu ngọc bao lời thiết tha Chẳng thấy ai lệ sa nhớ Mẫu Chốn trường gợi nỗi nhớ thương Ngự thuyền lướt sóng trùng dương Nào ai để dạ vấn vương lòng sầu Mẹ thương con chẳng câu phiền trách Lòng ước mong huyết mạch trùng trùng Sớm về điện ngọc Diêu Cung Con lành cố gắng hiếu trung tu hiền Hội Tý Sửu khai thiên tịch địa Vạn sự thành hiếu nghĩa vi Tiên Chơn kinh Phật Mẫu diệu huyền Hơn trăm tám chục câu khuyên răn đời Mỗi câu mỗi ý lời Mẹ thuyết Cũng từ nguồn mạch huyết chảy ra Gồm bao lời ngọc thiết tha Chẳng phải lầm lạc đâu mà ngờ nghi Khắp gia gia đều trì niệm mãi Thì mùa màng cây trái hoằng sai Ấm no hưởng lạc trần ai Cuộc đời chẳng bị nạn tai dập dồn Điển quang Mẹ bảo tồn trường cửu Độ con thơ nội đủ Diêu Cung Nếu ai chẳng tin bất tùng Mùa màng ruộng rẫy sâu trùng bọ ăn Cuộc sống đành khó khăn đau khổ Nhân sinh lâm vào chỗ hiểm nguy Không mong sống sót được gì Đại kiếp thủy hỏa phong nhi ngập tràn Đại Từ Tôn Mẫu Hoàng cho biết Đúng trăng mười vào tiết trời đông Mẫu từ xuất hiện thần thông Vào ngày thập bát trần hồng giáng sinh Mẹ phủ hết điển linh quảng đại Tâm huyết thư để lại chơn kinh Kim môn siêu thoát quang minh Từ Tôn bảo dưỡng chúng sinh an toàn Là con hiếu đàn tràng cung kỉnh Mỗi hàng niên nguyện thỉnh Mẫu Từ Đúng ngày thập bát trăng mười Gia gia tụng niệm người người trì kinh Lập đại lễ hoa xinh trà quả Dâng hương đăng tất cả khiết tinh Cùng nhau hiệp hội trì kinh Sớ dâng Từ Mẫu chứng minh con lành Nếu như có nhơn danh hiền sĩ Truyền bá kinh nghĩa lý đủ đầy Từ Tôn đài thọ ân dầy Cháu con hiền sĩ từ đây huy hoàng Hưởng lộc thọ vinh sang phú quý Hạng phu nhơn bần sĩ hiền thần Truyền kinh phổ biến xa gần Gia gia vui hưởng muôn phần ấm no Mẫu hứa sẽ ban cho con thảo Năm trai lành kế tạo lửa hương Đời đời nối dõi tổ đường tông môn Nam nữ nào sùng tôn kính Mẫu Kỉnh lễ ngày Kị Mẫu thành tâm Mẹ ban phước lộc cao thâm Thiên xuân vạn đại hưởng âm đức dày Xứ phương nào hàng ngày cúng vía Đàn tràng cầu bốn phía an ninh Bảo toàn tính mạng chúng sinh Mẫu Hoàng phủ điển ứng linh lời nguyền Quốc dân nào kiền thiền vọng bái Thọ trì kinh nhớ mãi thâm ân Mẫu Từ cho xuất Thánh nhân Thông minh xuất chúng muôn phần huyền linh Công đức Mẫu vô hình khó tả Dầu lâm sơn biển cả khó hơn Ai mà đáp nghĩa đền ơn Phải sùng am tự, họa,sơn tượng hình Rồi dâng lên linh thờ phượng Tạo lập thành tâm, tưởng bái tôn Diêu Trì Phật Mẹ linh hồn Hiếu tử làm đặng y ngôn kim truyền Mẹ sẽ nhận con hiền dâu thảo Gắng sức xây tái tạo mau đi Tùy gia phương tiện hữu vi Chẳng cần tiền bạc nhiều chi đâu nào Mẫu chứng lòng thanh cao tâm hảo Sẽ ghi tên con thảo danh đề Thẻ ngọc Mẹ chuyển bút phê Tâm phàm phủi sạch trở về Diêu Cung Bởi vì con tận trung tận hiếu Đắc quả cao cửu khiếu khai minh Con hiền thọ hưởng trường sinh Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm lành Mẹ sắc tứ phong danh muôn thuở Chánh quả thành dứt nợ trần Ban cho cửu phẩm liên đài Trung ương thượng quốc về ngay đền vàng Thành Đại La nghiêm trang quý báu Phu phụ đồng đắc đạo kim thân Mẹ ban thọ hưởng hồng ân Lưu danh bửu điện muôn phần vẻ vang Đức Từ Tôn Mẫu Hoàng bảo dưỡng Trải hết tâm vố lượng vô biên Ngự nơi cõi thượng thiêng liêng Độ cho quốc thới dân yên thanh bình. Địa Mẫu Diệu Kinh Phật Mẫu tuy vô hình vô tướng Mẹ cầm quyền phạt thưởng nhơn sinh Ban ra lời ngọc chơn kinh Khảo sát đạo lý khai minh địa cầu Thuở hỗn độn một bầu không khí Còn mịt mù vô thỉ biết đâu Phật Mẫu đã ngự đó rồi Phân ra Thiên Địa hoàn cầu chuyển xây Mẹ đứng ra làm thầy trước nhất Đạo hoằng khai lời thật huyền linh Phổ thông truyền báchơn kinh Phán bày phong tục nhân sinh sáng ngời Chốn phàm trần đếm đời ngươn hạ Mẹ giáng cơ bút tả chơn kinh Ai truyền ấn tống phổ in Mẫu Hoàng bảo hộ khương ninh cửu trường Người này đầy lòng thương tiếp dẫn Giúp chúng sanh ngộ nhận đạo chơn Dựng đời thạnh trị thượng ngươn Hết lòng chỉ giáo linh nhơn tỏ tường Khắp thế giới thập phương cung kỉnh Rán niệm trì nguyện thỉnh lời châu Đắc thành sở nguyện mong cầu Vậy mà chẳng thấy người nào lưu tâm Hoặc gia gia tháng năm ghi nhớ Lưu truyền kinh từ thuở ban hành Kẻ nào tụng niệm chơn thành Thánh Tiên đắc đạo rạng danh lâu rồi Ai chẳng tín bất cầu ác cảm Chê bai rằng mờ ám không tùng Đến khi nào lúc lâm chung Hồn linh kẻ ấy cùng khổ đau Ngục a tỳ sa vào miên viễn Đọa đầy người lắm tiếng dể khinh Sanh lòng nhạo báng lý kinh Tội như biển cả mênh mông thảm sầu Gây nhiều lỗi thâm sâu đại hải Mẹ chẳng phiền phải trái chi đâu Xét ra phắp cả hoàn cầu Đều do lịnh Mẹ pháp màu chuyển ra Mẹ thương con vị tha tất cả Nào thấy ai để dạ xót thuơng Đắng cay khổ nhọc ai tường Rõ thông nỗi khổ đoạn trường biết bao Dập dồn nhiều cảnh khổ đau Họa tai trước mắt tránh đâu bây giờ. Mẹ thương con đề thơ phân tỏ Lại chẳng nghe ghi rõ lời châu Cuộc đời thế sự bể dâu Mẹ đà tường tận đoán rồi tiên tri Dầu khó khăn việc chi nguy khốn Mị bình trị chỉnh đốn khắp nơi Phán truyền bày tỏ bao lời Hóa sanh hoằng đạo khai đời dưỡng sanh Phật mẫu có phân rành tất cả Bảy mươi hai vị đã lãnh phần Đương kim hành sự xa gần Vị nào cũng có thành phần hợp chung Duy mình Mẫu chẳng cùng ai cả Khắp ở trong thiên hạ xứ nào Lập chùa tạo miếu đền cao Phụng thờ Thần Thánh ra vào cung nghinh Còn Mẫu đây riêng mình ai nhớ Đến tánh danh cũng nhớ tường chi Cõi trần chẳng có chi chi Một ngôi miếu nhỏ vậy thì cũng không Bởi chúng sanh bạc lòng chẳng nghĩ Nên cam đành khổ lụy sầu bi Quanh năm bao cảnh loạn ly Trời mưa không thuận đất thì không sanh Mẹ thương con chẳng đành đoạn đứt Tình thiêng liêng bút mực ghi rằng Các con lớn nhỏ nghe chăng Thọ trì kinh Mẫu khó khăn cũng lành Khắp nhơn sinh điều hành tâm đạo Giúp cho đời cải tạo ăn năn Chẳng luận cao thấp ngang bằng Dẫu cho trẻ nhỏ lòng hằng trì kinh Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng Điển huyền vi hữu dụng Mẹ ban Cốt nhục xa cách lạc đàn Mẹ cho tái hợp bình an sum vầy Vui trong cảnh bao ngày cách biệt Dẫu chia tay cũng hiệp cùng nhau Không phân hai bậc thấp cao Ai ai cũng được truyền trao kinh này Khắp non nước đông tây nam bắc Phổ kinh để nhắc nhở lòng Thập phương bá tánh rõ thông Nếu chẳng khứng thọ chắc không sanh tồn Bao nguy khổ dập dồn đau xiết Nạn thiên tai thủy kiệt sơn băng Chúng sanh ngã gục nhào lăn Lâm vòng đại nạn thoát chăng được nào Hiện bây giờ ốm đau bệnh tật Sanh ra nhiều chứng thật gớm ghê Khắp trong tất cả thành quê Thảy đều thọ nạn ê chề khổ thân Bị nắng hạn mưa dầm ngập hết Thổ sản này ngã chết chẳng còn Đói lòng quằng quại các con Vậy khuyên rán nhớ lời son Mẫu từ Mẹ khuyên con tâm thư lời cuối Gắng tâm tu thông suốt lý kinh Truyền trao giải nghĩa phổ in Cho người trì tụng hiểu kinh kịp thời Chúng con sẽ thấy đời hết khổ Nội trong năm phổ độ đầu tiên Mưa hòa gió thuận khắp miền Mùa màng sung túc thấy liền chẳng sai Còn như đáo lệ ngày kị Mậu Lập đàn tràng bái Mẫu trì kinh Dâng đèn sáp thiệt quang minh Từ tôn phủ điển nhơn sinh phúc đầy Việc cúng kiến phải cho tinh khiết Cố gắng tu tha thiết cần chuyên Lo tròn phần sự hằng niên Ba mươi sáu nhựt kiền thiền trì kinh Sắm lễ vật cung nghinh Từ Mẫu Trong các ngày Kị Mậu lập đàn Gồm có sáu ngọn đăng quang Quả hoa tươi thắm hương phàn năm cây Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ Cùng chung nhau họp để kỉnh đàn Thuyết kinh giải lý rõ ràng Mỗi người đều định tâm an thọ trì Ai xứ nào làm y lời dạy Định tinh thần tụng bảy biến kinh Tiêu bao nghiệp chướng tội mình Hưởng đời ngươn thượng huyền linh sanh tồn Ai cố gắng sớm hôm trìtụng Thêm hai thời chuyển dụng tâm thành Mẹ ban huyền diệu điển thanh Tự tay cứu chữa mạnh lành nội gia ĐứcTừ Tôn truyền ra cho biết Các con cần tha thiết ghi lòng Lúa mạch gần chín đầy đồng Hiện ra móng bạch hư không rõ ràng Gió từ đâu thổi sang rất mạnh Trong niên này gặp cảnh phong ba Khổ sầu từ trẻ tới già Chúng sanh phải chịu thiết tha cơ hàn Nạn đói lạnh lầm than đau xiết Là điềm trời ứng thiệt rõ ràng Thiên đình thâu hạt lúa vàng Thần linh ngũ cốc lịnh ban về trời Gieo họa cho cảnh đời khốn khổ Tuy vậy mà có chỗ cũng chừa Nơi nào kỉnh Mẹ sớm trưa Trì kinh Địa Mẫu phước thừa bình an Mẹ bảo hộ vững vàng nơi đó Được trúng mùa mưa gió thuận hòa Ai từng phổ biến gia gia Tuyên truyền kinh Mẫu đứng ra giải bày. Phổ thông in đầy nghĩa lý Mẫu sẽ sai các vị thiên thần Gia thần ủng hộ ân cần Đồng theo độ kẻ xa gần thành tâm Được phúc lành tháng năm no ấm Trên thiên đình ghi chấm phước ban Nội gia kẻ đó thanh nhàn Sẽ được thanh phát vinh quang muôn phần Thanh Long, Bạch Hổ thần cũng giáng Phò tá người xứng đáng con lành Từ Tôn cho biết rõ rành Trăng mười thập bát giáng sanh trần miền Sửu mùi thìn tuất không an Đúng giờ nhất định lập đàn trì kinh Cầu lịnh Mẹ thương tình cứu khổ Phủ điển linh phổ độ chúng sanh Các con tựu họp tâm thành Được ban màu nhiệm phúc lành khắp nơi Mẹ hiển thánh xuống đời tri chứng Phương hướng nào bền vững chí tâm Thường hành kinh Mẫu diệu thâm Ngày đêm thành kinh tháng năm thanh nhàn Còn lo chi mùa màng chẳng trúng Gia nào hay trì tụng kinh này Phước lành sẽ được hưởng ngay Thăng thiên đắc quả chẳng sai chẳng lầm Hưởng quý tế cao thâm lộc cả Thọ hương đăng trà quả vinh sang Chơn kinh của Đức Mẫu Hoàng Gồm bao diệu lý lời vàng ngọc châu Kinh địa mẫu đứng vào bậc nhứt Chẳng tường phân ý thức suy tầm Người đời còn bởi mêtâm Chẳng nên khinh dễ lỗi lầm tội mang Ai tỉnh ngộ lập đàn cung kỉnh Thọ trì kinh nghiêm chỉnh cúng dường Nạn tai nghiệp chướng lỡ vương Một ngàn muôn kiếp thoát đường trầm luân Kinh Địa Mẫu thấm nhuần đạo lý Gắng cần chuyên nghiệm kỹ lời khuyên Hằng ngày ròng rã khẩn nguyền Được nhiều công đức tội liền tiêu tan Kinh Mẫu hơn muôn ngàn kinh khác Ai chí tâm hiển đạt phúc lành Rõ thông từng chữ hiểu rành Người đó sẽ được Mẹ dành hồng ân Điển huyền linh xa gần chiếu tỏa Phóng hào quang khắp cả bầu trời Thưởng người hiểu rõ từng lời Tâm tu kẻ đó sáng ngời minh châu Ai thông đạt từng câu nghiệm kỹ Đã tri tường nghĩa lý diệu kinh Có thể gột sạch tội mình Lại còn hưởng được phuớc vinh Qua nạn tai sắp xảy đến mình Tam tài lộc thọ khương ninh thanh nhàn Nếu ai hiểu được toàn kinh quyển Thì đích danh Mẫu chuyển điển quang Luôn được phước lộc bình Đời đời kiếp kiếp Mẹ ban phúc lành Như nghe thuyết kinh này chẳng tưởng Lại bỏ qua không lượng tường tri Mà lòng chẳng khứng thọ trì Bị khép vào tội khinh khi Phật Trời Tội phỉ báng bao lời xúc phạm Lâm vào cảnh khóc thảm sầu than Ngày ấy chẳng có kêu oan Phải đành vương tội gian nan ngục hình Dân nước nào chẳng tin lời Mẫu Sẽ lâm vào bao nỗi thiết tha Đại kiếp thủy hỏa phong ba Thảy đều chết rụi đâu mà còn chi Lòng Mẫu từ nghĩ suy đau xiết Muôn hưu đại kiếp phong ba Nạn thủy hỏa sắp xảy ra Thương cho sanh chúng phải sa cảnh sầu Ngặt chủng chẳng quay đầu trở lại Tuân theo lời mẫu dạy trong kinh Mẹ muốn bỏ sổ tử hình Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều Mẹ tính mãi bao nhiêu phương kế Chẳng đành bỏ phế lảng ngơ Tình thương vô bờ vô bên Làm sao cứu được con thơ trở về Mẹ dùng chước màu phê sắc lịnh Phán phân rằng thần thiện ác đến đây Chia làm hai lưới mây xuống trần Người hung dữ ác thần dẫn dắt Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm Độc ác, tàn nhẫn, đa dâm Chia ra tất cả chẳng lầm lộn chi Bậc hiền lương phi quân tử Thiện thần gom lại giữ một nơi Đưa vào chánh giác kịp thời Ngày đêm tụng niệm quên đời gian nan Chờ đến ngày hạ màn chung cuộc Mẫu sẽ vẩy ra một cái chài Dẫu cho thiện, ác phân hai Tóm thâu tất cả một chài nhốt chung Liên lụy kẻ tận trung hiếu thảo Người tu hành học đạo kinh tâm Chừng đó mới thấy diệu thâm. Mẫu Từ sẽ chuyển huệ tâm trẻ lành Được sống sót nhàn thanh đủ trí Biết tường phân chánh lý đường tà Thiện gần ác lại tránh xa Từ đó các đạo mở ra khai hoằng Đồng xui lòng ăn năn quì tựu. Chánh đạo Mẫu hội đủ đem về Chẳng còn chia rẽ khen chê Phân ra nhiều mối khó bề tường phân Hình tướng chìa phép thần mầu nhiệm Mẫu tả ra những điểm rất cần Nhị thập bát tú phân thần Phủ vây chánh bắt giáp gần chánh nam Còn phương hướng tây nam tây bắc Các vị thần giáp mặc bông bào Gồm sáu mươi vị tài cao Mẫu từ phán lịnh truyền cao lời vàng Tuân lời dạy thiên can mười vị Thập nhị thần đinh chỉ đại chi Tất cả tinh tú các vì Ủng hộ Hoàng Đế Thái Vi hoàn toàn Đức Từ Tôn Mẫu Hoàng điều khiển Thần Lôi Công Lôi Điển tám phương Phân thân trấn thủ phi thường Phân thân trấn thủ phi thường Sáu mươi bốn quẻ tỏ tường diệu thâm Hiện nguyên hình tay cầm binh khí Đứng dàn ra trực chỉ đó đây Khắp trong thiên hạ đủ đầy Trận đồ của Mẫu lập xây hạ miền Cõi Trời Nam từ niên Đinh Hợi Đến niên Thân Dậu mới thiệt rồi Biết bao huyền bí nhiệm Tại nơi hạ giới thảm sầu thiết tha Mẫu Từ bủa Thiên La Địa Võng Sức đại hùng vang động kinh hồn Làm choThiên ám Địa hồn Thần sầu Quỉ khóc vong tồn thảm thương Còn Tứ Đại Thiên Vương tiếp lịnh Bốn cửa trận Mẫu định trấn an Tám vị Thần lực kim cang Xông vào trận hóa pháp đàn thần thông Làm Trời đất hư không nghiêng ngả Nhựt nguyệt tinh châu hỏa đảo xây Cũng như chong chóng lăn quay Thế rồi lặn mất không ngày hiện ra Mẫu thâu lại yêu tà lăng mị Kẻ bất lương phải bị luật hình Hô phong hoán vô lôi đình Làm cho sống nổ nước minh mông tràn Lửa dậy khắp dương gian nguy khổ Trận cuồng phong bão tố khắp vùng Mẫu tận diệt đứa bất trung Xử người bất nghĩa chẳng dung tha nào Đến chừng đó vàng thâu mới rõ Mẫu thâu xong ngày đó bình an Nước rút sóng lặng gió tan sẽ thấy Vũ trụ dương gian tươi nhuầm Kẻ thiện lương được thoát khỏi vòng Thế là Mẫu dụng huyền công Diệu pháp hóa biến thần thông lẹ làng Kinh đô có sen vàng đua nở Bốn phía vòng khắp ở thị thành Các con hiếu thảo hiền lành Đến chừng khi đó Mẫu dành hồng ân Đước đổi xác kim thân bất hoại Chẳng từ sanh thoát khỏi nghiệp duyên Chứng đặng Đại La Tiên Thiên Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công Hội bàn đào thưởng đồng tất cả Các con nào đắc quả dự vào Thế rồi vĩnh viễn về sau Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền Chúng con được niên niên bất tử Khoái lại tiêu diêu ngự cảnh nhàn Giống cảnh Diêu Điện Mẫu Hoàng Luôn hưởng lộc thợ phước an cửu trường Phật Mẫu ngự trên thượng tầng cõi Hoằng khai dưỡng nhơn loại bảo toàn Hết lòng quảng đại sắt son Hóa sanh dậy dỗ các con phản hồi. Nam Mô Vô Thượng HưKhông Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh Lạy Địa Mẫu 1. Nam Mô - Con kính lạy Địa Mẫu đấng tối cao vô thượng Đã giáng lâm phò hộ thế gian này Với anh linh cùng đức độ cao dầy Công tế thế an bang danh còn đượm 2.Nam Mô - Con kính lạy Địa Mẫu ân độ sanh vô lượng Ân bão trì cứu tử lại vô biên Mẹ của nhân gian Mẹ Thánh Mẹ Hiền Hàng Phật tử chúng connguyền ghi mãi 3. Nam Mô - Con kính lạy Địa Mẫu đấng Mẫu nghi tứ hải Danh vang lừng khắp cả nước non Tiên Xuống trần gian làm Phật Mẫu Mẹ hiền Để cứu độ chúng sanh cơn hoạn nạn 4. Nam Mô -Con kính lạy Địa Mẫu đấng anh linh vô hạn Xin Mẹ ban phép lạ cứu trần gian Đang sống trong nghiệp chướng chốn trần hoàn Xin tế độ cho muôn loài hết khổ 5.Nam Mô - Con kính lạy Địa Mẫu xin Mẹ ban ân lành Cho Việt Nam Phật Giáo thinh hành. Được tôn nghiêm mầu nhiệm với viên thành Cho con Mẹ bốn phương đều kính Mẹ. Ngũ Canh Từ Canh một nhìn trần lệ tuôn rơi Chúng dân khổ lụy nạn tơi bời Nên lo tu tỉnh này con dại Lạy Mẹ nguyện cầu bể khổ vơi Canh hai điển lực rải mọi nơi Thiện nhân tu tỉnh được thảnh thơi Sao không cố gắng tu trì vậy Thương xót con, Mẹ chẳng nghỉ ngơi Canh ba lụy Mẹ nhỏ tràn trề Hết lời kêu gọi con tỉnh mê Cuộc đời say đắm đường vật chất Chôn lấp linh quang cản lối về Cứu vớt cuộc đời giấc nam kha Canh tư đẫn lệ cõi ta bà Điển linh ban xuống lời từ ái Kêu gọi thiện nhân nhủ Mẹ già Canh năm trầm ngâm suy diệu huyền Bố ban huyền diệu dứt oan khiên Thiện nhân cứu vớt tu hành vậy Di lặc oai linh dạy chư hiền. Tâm Kinh Tâm trí huệ thinh thing rộng lớn Sáng trong ngần, chẳng bọn mảy trần Làu làu một tánh thiên chân Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm Vận tâm ấy lặng trang sáng suốt Bờ cõi kia một bước đến nơi Trải lòng tròn đủ xưa nay Công thành quả chứng tỏ bày đích đang Hàng Bồ Tát danh quan tự tại Khi tham thiền vô ngại đến trong Thẩm vào trí huệ mở thông Soi thấy năm uẩn cũng không khó gì Luống tất cả không chi khổ ách Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra Sắc không chung ở một nhà Không chăng khác sắc, sắc nào khác không Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng Không tướng y như tượng sắc kia Thọ,Tưởng, Hành, Thúc phân chia Cũng lại như vậy tổng về chơn không Tòa sắc tướng nhơ nông tạm đó Các phép kia tướng nọ luống trơn Chẳng sanh chẳng dứt thường trơn Chẳng cấu, chẳng tinh, chẳng sờn, chẳng thêm Cớ ấy nên cõi trên không giới Thảy làu làu vô ngại trướng chân Vốn không ngũ uẩn ấm thân Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không Thấy rỗng không mà không nhãn giới Biết hoàn toàn thức giới cũng không Tánh không sáng suốt đại đồng Vô minh chẳng có mưa lòng hết chi Vẫn không có thân gì già chết Huống chi là hết chết già sao Từ đề cũng chẳng có nào Không chi là trí có nào đắc chi Do vô sở đắc ly tất cả Nhơn pháp kia đều xả nhị không Vân lòng trí huệ linh thông Bờ kia mau đến tâm không ngại gì Không quái ngại có chi khủng bố Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên Tâm không rốt ráo chi duyên Niết Bàn quả chứng, chơn nguyên hoàn toàn Tam thế Phật, y đàng bát nhã Đáo bồ đề chứng quả chánh nhơn Cho hay bát nhã là hơn Phát môn tối thắng, cõi chơn mau về Thiệt thần chú linh tri đại lực Thiệt thần chú đúng bực quang minh Ấy chú tối thượng oai linh Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần Trừ tất cả nguyên nhân các khổ Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư Thiên nhiên chơn thiệt bất hư Án lam thần chú chơn như thuyết rằng : Yếtđế, yết đế, ba la yết đế,ba la tăng yết đế, bồ đềta bà ha. Vãng SanhThần Chú Nam mô a di đà bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa diệt dạ tha, a di rị đô bà tì, a dị ri đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. ( đọc 3 lần ). Xuân Tán Chúng thích tử kiền thiền xưng tán Đứng Mẫu nghi vô lượng lợi sanh Đông tây nam bắc bốn phương Hiện ra quảng điển huyền linh tuyệt vời Kim sắc tướng muôn ngàn công đức Khắp mười phương chẳng bực sánh bườn Bạch Hào Hiển Hiện phóng quang Xây vần chiếu sáng độ an dân lành Nam mô thiên cung thượng cõi Phật Mẫu Tiếp dẫn chúng sanh A Di Đà Phật Nam Mô A DiĐà Phật ( 108 lần ) Nam Mô Quán Thế Âm BồTát ( 10 lần ) Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát ( 10 lần ) Nam Mô Linh Sơn Thánh Mẫu Bồ Tát ( 10 lần ) Nam Mô ThanhTịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát ( 10 lần ). Nam Mô Vô Thượng HưKhông Địa Mẫu Vô Lương Đại Từ Tôn A DiĐà Phật ( 1 biến ) Đưa -Điển - Mẹ - Hồi - Cung -Trước hương đăng trà quả - Lễ kinh thành con bái tạ Mẫu nghi - Mẹ là đại đức từ bi - Vìthương con dại mới đi xuống trần - Lời châu ngọc Mẹ ân cần dạy biểu - Tiếng đá vàng con mới hiểu thiên cơ - Dắt con chỉ bến chỉ bờ - Lo tu trọn đạo đặng nhờ thiên tiên - Này các con quyết tâm chí tịnh - Giữ một lòng nhẫn nhịn lo tu - Giờ này là tuyết âm u - Điển linh Mẹ giáng xuống trần độ con - Nên con mới biết cung son bờ bến - Đồng cùngnhau dắt đến trường thi - Gia trang sắp đặt an bày - Thanh trà hoa quả lễ bày kính dâng - Con lớn bé chúc mừng hoàng Mẫu - Cầu phước dư cho Nam Việt cựu ngôi - Giờ này cầu nguyện đã rồi - Lạy đưa đức Mẹ phản hồi thiên cung Nam Mô Vô Thượng Hư Không Diêu Trì Kim Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Từ Tôn Đại Tứ Tôn Cảm Ứng Chứng Minh A Di ĐÀ Phật ( 1 biến ) Tụng kinh xong, tiếp tục bài nguyện này : Kiền thiền vọng bái Mẫu hoàng Chấn chỉnh đạo giáo sắp an dân tình Độ người khỏi chốn u minh Vọng cầu bái Mẹ nhờ tình xót thương Chúng dân tai họa đa vương Lạy Mẹ dạy dỗ mới tường thiên cơ Vô cực từ tôn Tây Thiên bá chủ Vương Cung Tây Mẫu đê đầu lạy tạ tứ ân Hào quang rọi xuống hương lân sinh thành Khắp trong dân chúng làm lành Thương yêu đùm giúp chằng đành bỏ nhau Mây lành rọi tỏ năm màu Cỏ cây tươi tốt làu làu thái dương Yên vui bốn bể mới tường CơTrời sắp đặt luân thường vẻ vang Diêu Trì chấn chỉnh sửa sang Bao nguồn về cội một đàng chánh qui Kiền thiền vọng bái Từ Tôn Chuẩn y tam giáo mới tồn lý cao Ơn trên cam lộ rào rào Chúng con nguyện vọng ướ cao thái bình Lại cầu Mẹ ở Thiên Đình Độ an dân chúng pháp linh tỏ tường Nam Mô Vô Thuợng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh ( 3 biến ) Hồi Hướng Phần kinh con mới đọc rồi Nguyện xin phước vun bồi chúng sanh Cho người thức tỉnh tu hành Bến mê phút chút biến thành ao sen Lý kinh sáng suốt như đèn Rọi vào tâm trí thức bạn hiền đồng tu Ngày ngày tinh tấn công phu Điển quang Mẹ chiếu linh căn sáng ngời Cúi xin Phật Mẫu chứng lòng Tâm nguyền quyết chí gắng công tu trì. Mam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu dưỡng sanh bảo mạng chơn kinh đại từ tôn ( 1 biến ) Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 1 biến ) Nam Mô ĐươngLai Hạ Sanh Di Lạc Từ Thị Tôn Phật ( 1 biến ) Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát ( 1 biến ) Tam Qui Qui y Phật Mẫu cứu trần thế Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh Trần gian biết đường Phật Tiên Qui y pháp là phương giải thoát Điều huyền linh bủa khắp trần gian Sửa tâm chứng đắc kịp giờ Linh căn Mẹ điểm hội kỳ Long Hoa Qui y tăng chơn truyền Mẫu đại Phải ăn chay giới luật nghiêm trang Hữu hình giả tạm luân hồi Vô di thượng cảnh trở về Thiên Cung. Chung Thời Kinh Túng Đến Đây Đã Hết Bài Kệ Thượng ngươn lập Hội Long Vân Phân ngôi kế vị hòa bình quốc gia Cộng đồng tam giáo qui nguyên Chơn truyền tâm ấn khai cơ đạo hiền Thượng thông thiên địa Long Hoa Chuyền luân chánh pháp độ người thiện duyên Thiên cơ kín nhẹm khó rành Người không căn trước thiệt tình biết đâu. Sám Cơ trời chẳng dám lậu ra Mẹ thời thương trẻ xót xa trong lòng Cho nên lòng Mẹ trực hồng Canh khuya Mẹ đến tỏ trong sự tình Nếu mà ngồi để làm thinh Con ôi ! Lớn bé khốn mình về sau Thấy trong Trời định quặn đau Con ôi ! Não nộ Mẹ vào tâu xin Muôn trong Thánh Đế thượng đình Thứ dung trần tục tôi xin phen này Tôi nguyền độ hết xưa nay Bao giờ về hết trên thay sửa đời Mẹ thương con dại con ơi ! Nếu không có Mẹ thời Trời chẳng dung Con ôi ! Lòng Mẹ không cùng Thương con trần thế khắp chung bầu Trời Phải xưa con trẻ nghe lời Mẹ đem vế hết thảnh thơi an nhàn Có đâu trần tục chẳng an Nay thời đau ốm mai mang tật nguyền Chết rồi đọa lạc Diêm Thiên Luân hồn sáu thú lụy miền U Đô Con ôi ! Lòng Mẹ héo khô Cũng vì thương trẻ Mẹ vô chốn này Một giải tật bệnh con nay Tiêu trừ đau ốm đặng ngày an vui Hai giải nóng nảy thuận xuôi Hàn thấp phong chứng hết rồi hân hoan Canh chầy Mẹ kíp lên đường Giã con ở lại Mẹ sang Tây Đình. Sám Địa Mẫu Ngày ngày lòng Mẹ buâng khuâng Cũng vì thương xót nơi chung bụi trần Nở nào xây mặt sấp lưng Liệu chiêu con đỏ Mẹ đành xiết than Trời cho oai nộ sấm vang Nếu không có Mẹ ắt tàn chúng con Bởi nên Mẹ trách phiền con Công Mẹ sanh sản chẳng còn tiếc chi Con sao bạc nghĩa chẳng ghi Nhờ ơn tạo hóa chút gì công danh Nếu như Mẹ giận bỏ đành Thì con đâu đặng nên danh cuộc đời Ngày ngày ăn uống vui chơi Chớ hề con niệm địa thời Mẫu đây Muốn nên kiển vật tạo gây Muốn độ con trẻ phải bày dỗ khuyên . Đôi lời Mẹ nhắc con ghi Ngày nào kêu Mẹ, Mẹ liền dắt con Trần gian tăm tối mịt mù Con ơi nghe Mẹ thẳng đường con đi Những lời Mẹ đã tiên tri Ngày nào đại hội con thì gặp Cha Ít lời kim khẩu thuyết ra Dương gian con ngụ Mẹ về Thượng Thiên. Địa Mẫu Chơn Kinh ( ChúGiải ) Hồi mới tạo Thiên lập Địa, vua bàn Cổ xuất thế trị đời trước nhứt, ngài mới sắp đắt ngôi thứ, vì lẽ tự nhiên ngài phong ban tặng cho Mẫu đây đến bực tối cao đại. Âm dương hai khí đủ rồi mới kết cấu cùng nhau hiệp thành hôn phối. Nhờ có gió thuận, mưa hòa, hiệp tác mới hóa sanh ra muôn loài vạn vật. Ấy vậy ai mới để ai bước vào đường đạo đức thì phải trì kinh Địa Mẫu này trước hơn hết mới nhằn Đạo hạnh.Trên thì cầu xin với Hoàng Thiên hoan lạc hỷ xá tội lỗi cho tất cả chúng sanh. Còn dưới thì khấn nguyện cung địa hậu vui lòng bảo hộ muôn dân cho đặng an nhàn trường cửu. Kể từ đây đất trời phân biệt rõ, chẳng còn mờ mịt mờ ám như trước nữa. Đất là Âm, Trời là Duơng. Âm Dương mới khăng khít cùng nhau chẳng hề rời rã. Thông đồng khắp cả cùng Trời Đất thấu đáo Nhựt, Nguyệt Tinh là ba ánh sáng. Và bao trùm tất cả Càn Khôn Vũ Trụ chẳng còn sót hướng nào. Bắc, Nam, Đông,Tây là bốn góc chánh trụ. Hiệp với Tây Bắc,Tây Nam, Đông Bắc,Đông Nam là tám hướng bao vòng quanh nơi ngoài thị gọi là Trời. Còn Mẫu đây, Mẫu có thủ trung ương Mồ kỷ rằng Đất. Bởi vậy bảo dưỡng cho muôn loài từ hồi đời thiên nhiên nhứt khí, gọi là đời thượng cổ dĩ chí thời Hậu Thiên, gọi là đời hậu lai thế cấu trọng. Còn phu nhân của Mẫu vốn là một vị Đồng Tử trường sanh bất lão, huyền diệu cao minh vô cùng. Ngài thì điếc, còn Mẫu thì câm, đôi ta kết bạn cùng nhau rất nên chan hòa nhã, sách có chữ rằng : Thiên lung Địa á. Thần cũng là Dương, Khí cũng là Âm, lúc ban sơ Âm thanh Dương suy, phổi hiệp mới biến hóa Trời. Đến chừng tạo Thiên lập Địa rồi, thì Dương khứ Âm lai. Khí thần giao cảm mới hóa sanh loài người hiền lành nhơn chánh. Chơn khí là Mẫu đây. Mẫu đây mới thiệt là Âm khí. Còn chơn Thần thì biến trở lại làm chúng sanh của Mẫu. Chơn Thần là nhứt điểm linh quang, ấy là Dương khí. Âm Dương nội hiệp gọi rằng ĐấngTạo Hóa ra Thiên Địa trước hết, rồi sau đó mới hóa sanh ra chúa thánh tôi hiền. Tuy là chẳng thấy Âm Dương giao cấu như phàm phu tục thế nhưng mà có thật, vì Thiên Can với Địa Chi thường thường luân chuyển sanh sanh hóa hóa ra hoài chẳng đứt, tám cửu là 12, ấy là thập nhị địa chi : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi còn nhị bát là 10 ấy là thập Thiên Can : Giáp, Ất,Bính, Đinh, Mồ, Kỷ, Canh,Tân, Nhân, Quý, Can, Chi là Âm Dương. Tử với Mẫu chẳng rời nhau thìthọ thai liền. Thai nghén cưu mang như vậy cho đến 10 năm chẵn. Mười năm mới đúng quẻ hào đã định, vì trong bát quái có phân chia ra 8 hướng, mỗi hướng chia ra làm 8 quẻ, mỗi quẻ tẻ ra 6 hào, cộng chung lại là 64 quẻ, tẻ ra là 384 hào. Đúng giờ mãn nguyệt trúc cơ, thìtrong thân của Mẫu xuất hiện ra 6 vị Thánh Đế Minh Quang kể cả dưới đây : Một là vua Thiên Hoàng, hai là vua Định Hoàng, ba là vua Nhơn Hoàng, bốn là vua Phục Hy năm là vuaThần Nông, sáu là vua Hiên Viên. Qua đến đời vua Phục Hy thì ngài đã hiểu rõ máy biến hóa của Trời Đất. Ngài bèn phân định hai khí Âm Dương và họa ra mộtcái bát quái Tiên Thiên rõ tám hướng trong Kiều Thôn Vũ Trụ. Đén đời vua Thần Nông thì Ngài tìm kiếm ra được năm giống lúa và sáu thứ gạo. Đến đời vua Hiên Viên thì ngài kiếm ra đủ cách chế tạo ra y phục và các đồ vật dụng cho người đời cần dùng chẳng sót một món nào. Con người mà đặng ăn no bận lành kể từ hai đời vương đó. Rồi lưu truyền kiểu mẫu phát lạc rằng : Ba kiếp Phật xuất thế, kiếp nào cũng ở trong thân Mẫu mà ra. Chư vị Bồ Tát cũng vậy, chẳng có vị nào rời xa thân Mẫu này được nữa. Nếu họ ra khỏi thân Mẫu rồi, họ nương ngự ở xứ nào cho được bao giờ. Vì khắp cùng Đống, Tây, Nam, Bắc thì đã có 4 Bộ Châu bao trùm tất cảc ác xứ rồi. Cùng là xuân, hạ, thu, đông bốn mùa tám tiết trở xây cũng do nơi Mẫu tạo thành. Nào là sông rạch, hồ, biển đâu đâu ta cũng chẳng rời xa khỏi thân Mẫu. Cùng muôn nước chín châu cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Trải qua các đời Vương Đế đại danh chưa có ai ra khỏi thân Mẫu. Cùng cả thả lớp bé trong cung điện, cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Khắp trong thiên hạ có Mẫu nhạc là năm danh sơn thắng cảnh hơn hết,cùng là núi cao rừng thẳm cổ thụ ngàn năm, cũng do nơi Mẫu vun dưỡng thành. Các sắc nhơn dân trăm họ đâu có ai lìa khỏi thân Mẫu được. Cùng năm giống lúa, sáu thứ gạo, cũng do nơi Mẫu vun dưỡng tốt tươi bảy mươi hai cành thanh lương địa kia, chẳng phải ở ngoài thân Mẫu này được.Cũng với loài cầm thú cây cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Còn người trần thế mà sống đặng đây,thì cũng nhờ ăn uống vật thực của Mẫu mới sống. Đến chừng chết rồi cũng phải chôn thây xác trở vào trong mình Mẫu. Sách có chữ rằng : Sanh tạo tử hườn tại thổ. Tất cả châu, quận, phủ, huyện cũng chẳng rời thân Mẫu được. Nào là am tình, quán xá, chùa miếu, lâu đài cũng nhờ lấy tài liệu và vật chất trong cơ thể Mẫu mới làm ra được vững bề tốt đẹp. Thánh,Thần, Tiên, Hiền lớn nhỏ cũng nhờ Mẫu phong thưởng đặt đầy, lớp lang. Còn các chư Phật mà đặng kim thân bất hoại thì cũng nhờ Mẫu chứng nhận công quả cho mới đặng đắc thành chánh giác. Huỳnh kim là vàng ròng của Mẫu ban bố hun đúc ra vóc ngọc cành vàng của các chư Phật kia. Chơn khí là Mẫu đây. Mẫu đây mới thiệt là Âm khí. Còn chơn Thần thì biến trở lại làm chúng sanh của Mẫu. Chơn Thần là nhứt điểm linh quang, ấy là Dương khí. Âm Dương nội hiệp gọi rằng ĐấngTạo Hóa ra Thiên Địa trước hết, rồi sau đó mới hóa sanh ra chúa thánh tôi hiền. Tuy là chẳng thấy Âm Dương giao cấu như phàm phu tục thế nhưng mà có thật, vì Thiên Can với Địa Chi thường thường luân chuyển sanh sanh hóa hóa ra hoài chẳng đứt, tám cửu là 12, ấy là thập nhị địa chi : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi còn nhị bát là 10 ấy là thập Thiên Can : Giáp, Ất,Bính, Đinh, Mồ, Kỷ, Canh,Tân, Nhân, Quý, Can, Chi là Âm Dương. Tử với Mẫu chẳng rời nhau thìthọ thai liền. Thai nghén cưu mang như vậy cho đến 10 năm chẵn. Mười năm mới đúng quẻ hào đã định, vì trong bát quái có phân chia ra 8 hướng, mỗi hướng chia ra làm 8 quẻ, mỗi quẻ tẻ ra 6 hào, cộng chung lại là 64 quẻ, tẻ ra là 384 hào. Đúng giờ mãn nguyệt trúc cơ, thìtrong thân của Mẫu xuất hiện ra 6 vị Thánh Đế Minh Quang kể cả dưới đây : Một là vua Thiên Hoàng, hai là vua Định Hoàng, ba là vua Nhơn Hoàng, bốn là vua Phục Hy năm là vuaThần Nông, sáu là vua Hiên Viên. Qua đến đời vua Phục Hy thì ngài đã hiểu rõ máy biến hóa của Trời Đất. Ngài bèn phân định hai khí Âm Dương và họa ra mộtcái bát quái Tiên Thiên rõ tám hướng trong Kiều Thôn Vũ Trụ. Đén đời vua Thần Nông thì Ngài tìm kiếm ra được năm giống lúa và sáu thứ gạo. Đến đời vua Hiên Viên thì ngài kiếm ra đủ cách chế tạo ra y phục và các đồ vật dụng cho người đời cần dùng chẳng sót một món nào. Con người mà đặng ăn no bận lành kể từ hai đời vương đó. Rồi lưu truyền kiểu mẫu phát lạc rằng : Ba kiếp Phật xuất thế, kiếp nào cũng ở trong thân Mẫu mà ra. Chư vị Bồ Tát cũng vậy, chẳng có vị nào rời xa thân Mẫu này được nữa. Nếu họ ra khỏi thân Mẫu rồi, họ nương ngự ở xứ nào cho được bao giờ. Vì khắp cùng Đống, Tây, Nam, Bắc thì đã có 4 Bộ Châu bao trùm tất cảc ác xứ rồi. Cùng là xuân, hạ, thu, đông bốn mùa tám tiết trở xây cũng do nơi Mẫu tạo thành. Nào là sông rạch, hồ, biển đâu đâu ta cũng chẳng rời xa khỏi thân Mẫu. Cùng muôn nước chín châu cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Trải qua các đời Vương Đế đại danh chưa có ai ra khỏi thân Mẫu. Cùng cả thả lớp bé trong cung điện, cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Khắp trong thiên hạ có Mẫu nhạc là năm danh sơn thắng cảnh hơn hết,cùng là núi cao rừng thẳm cổ thụ ngàn năm, cũng do nơi Mẫu vun dưỡng thành. Các sắc nhơn dân trăm họ đâu có ai lìa khỏi thân Mẫu được. Cùng năm giống lúa, sáu thứ gạo, cũng do nơi Mẫu vun dưỡng tốt tươi bảy mươi hai cành thanh lương địa kia, chẳng phải ở ngoài thân Mẫu này được.Cũng với loài cầm thú cây cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Còn người trần thế mà sống đặng đây,thì cũng nhờ ăn uống vật thực của Mẫu mới sống. Đến chừng chết rồi cũng phải chôn thây xác trở vào trong mình Mẫu. Sách có chữ rằng : Sanh tạo tử hườn tại thổ. Tất cả châu, quận, phủ, huyện cũng chẳng rời thân Mẫu được. Nào là am tình, quán xá, chùa miếu, lâu đài cũng nhờ lấy tài liệu và vật chất trong cơ thể Mẫu mới làm ra được vững bề tốt đẹp. Thánh,Thần, Tiên, Hiền lớn nhỏ cũng nhờ Mẫu phong thưởng đặt đầy, lớp lang. Còn các chư Phật mà đặng kim thân bất hoại thì cũng nhờ Mẫu chứng nhận công quả cho mới đặng đắc thành chánh giác. Huỳnh kim là vàng ròng của Mẫu ban bố hun đúc ra vóc ngọc cành vàng của các chư Phật kia. Thật là quí báu hơn tất cả chân châu bửu ngọc trong bốn phương trời.Thiếu chi người ham muốn vọng tưởng đến chừng kết cuộc rồi, có mấy ai được đắc thành sở nguyện. Còn nào là những vàng thoi bạc nến, cùng nới các kim khí thác cũng coi còn sót món nào ở ngoài thân Mẫu này đặng chăng. Các nhà Vương hầu tiểu nhược quốc nhờ Mẫu phong tặng tôn kính. Còn trải qua các nhà Đế Vương đại cường quốc thì cũng nhờ Mẫu sùng tôn cho, mới được an hưởng thạnh trị lâu dài. Nước nào mà bị giặc giã cưỡng bức lấn lướt cũng đo nơi Mẫu vận chuyển phạt hành, mới có can qua tranh đấu khởi. Vậy mà chẳng nước nào biết kính trọng đến thân danh của Lão Mẫu ráo trọi. Lãnh, nhiễu, the, lụa, vải, bố thứ nào cũng do Mẫu sản xuất. Cùng là bông hoa, cây trái, rau cải đủ thứ cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Các loại chua, ngọt, cay đắng do nơi Mẫu sản xuất. Cùng thuốc, lúa ăn trong bốn mùa cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Khắp trong thiên hạ, đàn ông chí những đàn bà, con nít điều sanh ra nhiều thứ bịnh. Bởi vậy cho nên Mẫu tạo ra sẵn sàng cả muôn thứ thuốc để phòng điều trị. Lại cũng có hiếm những hạng người nam nữ chẳng ưa dùng tửu nhục mỹ vị. Vì vậy cho nên Mẫu đã tạo sẵn là dầu, muối, đường, giấm đặng cho chúng nó dùng cho vừa miệng. Món nào món ấy cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành tất cả. Phật Địa Mẫu than rằng : Mẫu đã lao tâm tổn huyết với chúng con đã tận kiệt rồi. Công lao tiêu tứ ấy biết lấy bút mực nào mà tả hết cho được. Vìtình Mẹ thương con nam, nữ, giầu lao khổ thế mấy Mẫu cũng chằng sờn. Sách có chữ : Phụ mẫu ái tư chi tâm vô sở bất chi. Vậy mà chúng con nỡ lòng nào quên đứt ơn sâu nghĩa cả của Mẫu tạo hóa. Hễ Mẫu tạo hóa ra món nào, Mẫu hết lòng vun dưỡng trưởng thành cho món ấy. Mẫu cũng có thể chế biến ra tiền bạc đủ thứ cho chúng con mua bán chi dùng hàng ngày. Vậy mà chẳng thấy ai để lòng tưởng niệm đến Mẫu, một tiếng coi thử trên đời này chẳng còn sót món nào ở ngoài thân Mẫu. Ấy vậy muôn loài vạn vật cũng hườn lại một tay của Mẫu tạo hóa sanh thành tất cả không ? ( Nam mô nhứt tâm thành kinh, Nam Mô A Di Đà Phật, thật y như lời Mẫu truyền chẳng sai ). Trước kh iMẫu hóa sanh ra một vật thổ sản mà thô, gọi rằng quả địa cầu ấy Mẫu tích trữ chẳng biết bao nhiêu tài liệu và phẩm thực. Trên đời này chỉ có một mình Trời là lớn hơn hết mà thôi, chớ ai nào có biết đến Mẫu. Chớ như Địa Mẫu này sánh cùng Hoàng Thiên kia cũng đồng một bực đó mà. Khi nào trênTrời mưa xuống một giọt nước Cam Lồ Thủy thì dưới đất bèn hóa sanh ra các loại ngũ cốc đầy đồng lấp ruộng. Tuy là hạt mưa ngọt ngào trong sạch kia rơi xuống đất rất đượm nhuần mát mẻ, vậy mà ai có biết đặng gốc hạt mưa ấy bởi đâu mà ra chăng ? Cũng bởi rút hơi nước ở trong cốt thủy tinh vi của Mẫu đem lên không trung làm mây, rồi mây bèn đông đặc lại thành giá, giá ấy gặp một luồng điện quang chiếu diệu vào, liền tan ra rơi xuống đất thành ra mưa đó. Rồng, cù tang hình ẩn dạng dưới ngàn sông, muôn suối cũng chưa ra khỏi thân Mẫu được. Bởi vậy cho nên bão tố gió mây gìcũng do nơi Mẫu vận chuyển thiện hành tất cả. Nếu Mẫu chẳng điều khiển Rồng làm gió làm mây thì bao giờ ai thấy có Rồng nào dám tự chuyển làm mưa xuống xứ nào đặng. Xứ nào mà chẳng có Rồng, cù tang hình ẩn dạng dưới.Hễ nghe lệnh Mẫu hô phong hoán vũ thích lịnh lôi đình nơi nào, thì nơi đó bèn hiện ra làm mưa làm gió liền. Nhắc tới nhắc lui mà nghe, chớ việc nào cũng do nơi Mẫu vận trù quyết sách cả thảy. Vậy mà người đời có mấy ai để tâm xét đến. Mẫu rất đau lòng xót dạ. Nhọc nhằn cay đắng bao nhiêu thì để cho Mẫu chịu. Còn mắt tốt ăn ngon thì chúng con toại hưởng vui cười. Phật Mẫu phát lạc rằng : từ xưa đến nay, Mẫu chẳng hề nhắm mắt, hễ Mẫu nhắm mắt rồi ắt có tai nạn to lớn sắp xảy đến cho tất cả chúng sanh liền. Chẳng đợi đến giờ nhắm mắt làm chi, nếu Mẫu xây lưng sấp mặt trong chừng một giờ. Thì cá Ngao to lớn kia nó trở mình lăn qua một cái nó sẽ xử tiêu sạch bách. Trời thì tan, đất thì rã. Trời Đất đâu còn thấy nữa. Trên đời này sẽ thành ra một tràng không thì trống trơn trống lỏng rồi đó. Chừng đó các chư Phật Như Lai cũng phải tàng ẩn ra ngoài cõi ngoại Càn Khôn. Còn chư vị Bồ Tát thì sẽ đào tẩu biệt hình dạng. Nào vua chúa, quan tâm dân đẳng sẽ bị tận diệt tiêu tan rụi hết. Trời, Đất, Thánh,Thần sẽ bị tiêu rã cũng như bị thiêu trong lò bát quái kia vậy. Sẽ chẳng còn biết Đông, Tây, Nam, Bắc chẳng nhận ra hướng nào cho đáng.Đến chừng, muôn loài vạn vật sẽ bị nát biến ran hư tro bụi kia vậy Phật Mẫt hứa rằng nếu kẻ nào gia tâm nghiên cứu sưu tầm thấu đáo chơn lý của Mẫu biên giải cho người đời. Chừng Mẫu khảo sát lại nếu quả chơn lý diệu mầu sẽ độ tận kẻ ấy liền. Mẫu sẽ giảng bút truyền cho ngọc Linh Chi hiện xuống nhập vào tâm kẻ ấy đặng trở nên sáng suốt phi thường. Rồi đích thân Mẫu sẽ phản bổn hườn nguyên chơn khí lại đúng thời tiết, cho kẻ ấy xuất hiện ra chơn thân chẳng sai. Hễ ai dưỡng tánh, tu tâm cho đặng hoàn toàn thìtinh thần mới hội hiệp lại được. Coi tinh thần với khí mà khối lại đáng tròn tỏ chặt chẽ thì chỉ có một mình Mẫu nào tạo ra được thôi. Nếu chư Tiên, Thánh Hiền nào bỏ qua chẳng cần quang khán chơn lý trong kinh Địa Mẫu này thì chớ khoe tài sóng sức nơi chốn đô hội đông người. Còn quan thần văn võ nào bỏ qua, thì cũng như họ đã quên đứt ơn sâu nghĩa nặng cả Từ Mẫu này rồi đó. Còn những kẻ văn chương học thức, nông gia, thầy thợ, thương nghiệp nào bỏ qua, thìcũng như họ không cần đền ơn đáp nghĩa Mẫu, họ lại còn bội bạc nghịch nghi là khác. Nếu chúng con làm ngơ giả đò chẳng biết chinh pháp chơn truyên của Mẫu này là mầu nhiệm mà học đòi theo, cứ hành theo ý tưởng riêng của chúng con hoài như vậy.Thì sẽ đọa đầy muôn kiếp chẳng tái sanh trở lại làm người. Nếu chúng con biết căn nguyên danh tánh của Mẫu là ai kia mà dám ăn nói cao giác như vậy thì phải lóng tai mà nghe cho rành : Lão Mẫu này vốn thật là Lão Bà Hỗn Độn hóa sanh ra hồi thuở còn mù mù mịt mịt chưa có phân chia trời đất kia lận. Rồi đó Mẫu đã sống ở đời đặng mười hai muôn. Chín ngàn sáu trăm tuổi thọ.Trong thời gian xuất thế ấy, Mẫu đã chịu cực nhọc khổ lao với chúng con đã dư ngàn dư muôn rồi đó. Mà chẳng ngời đến thời kỳ diệu độ. Mẫu hóa thân trở về cõi hư không vô thượng một cách mau lẹ như chớp nhoáng kia vậy.Từ ấy đến nay, nào là trai hiền gái thảo của Mẫu đâu, chẳng thấy đứa nào. Ngồi thuyền ra giữa chốn sông trường giang khóc kể với Mẫu một tiếng mà coi thử. Như vậy mà Mẫu chẳng hề phiền trách, nếu chúng con muốn cho Mẫu sẽ được trùng phùng tương hội lại một lần nữa. Thì phải ráng tu nhẫn, tu hành chờ đợi đến hội Tý hoặc hội Sửu thì Mẹ con ta sẽ được gặp nhau trong lúc khai Thiên tịch Địa. Cuốn Địa Mẫu Chơn Kinh này có một trăm tám mươi hai câu mà thôi. Câu nào câu nấy đều chánh là lời nói do Mẫu thuyết ra chớ chẳng phải của ai đâu mà nghi ngờ lầm. Nếu nhà nhà đều biết trìniệm mãi thì mùa màng sẽ được trúng no đủ, lại còn được hưởng lạc thú của đời thanh trị nữa. Đã chẳng bị tai nạn to lớn nhồi nhập, dồn dập. Thiện nam tín nữ trong các nhà ấy sẽ được hưởng khương ninh trường cửu. Nhược bằng chẳng nghe lời của Mẫu khuyên bảo ra đây. Thì mùa màng ruống rẫy sẽ bị thất bại rụi hết, chẳng còn một hòi yên ổn. Nhược bằng chẳng tin lời Mẫu thuyết ra đây. Thì sẽ lâm vào đại kiếp thủy hỏa phong mà chết rụi hết, không mong trông gì sống sót cho được. Mẫu cho chúng con biết rằng : mười tám tháng mười là ngày vía giáng sanh của Mẫu này cả thảy, mới phải là con nhà hiếu nghĩa. Lập đàn tràng, dâng hương dâng quả cho tinh khiết nghiêm chỉnh. Rồi hội hiệp cùng nhau trì kinh một lượt vào dâng văn sớ cho Mẫu chứng minh công lao cho. Nếu như có danh nhơn nào truyền bá phổ thông kinh Địa Mẫu ra cũng đầy đủ nghĩa lý. Mẫu hứa sẽ cho con cháu vị hiền sĩ thọ hưởng thọ vinh hoa sang phú tột bực đời đời. Còn như nếu có kẻ thường dân nào mà vui lòng ấn tống tiếp thêm ra nữa, Mẫu hứa sẽ cho kẻ ấy chổ sanh ra đặng 5 trai 2 gái ngay thảo vẹn toàn kế hậu lửa hương đời đời chẳng tuyệt. Còn như có cặp đôi bạn nào nhứt tâm lo liệu cúng vía, Mẫu hứa sẽ cho cặp ấy thọ hưởng quyền cao lộc cả thiên xuân vạn đại. Xứ nào có nhiều người cố công lao lộc đàn tán cúng vía Mẫu. Mẫu sẽ bảo toàn cho tánhmạng chúng sanh nơi đó. Còn như quốc dân ở phương hướng nào mà hết lòng lo lập đàn tràng cúng vía Mẫu kỵ chẳng hề sai sót, thì Mẫu cho xuất thánh nhơn trong nước ấy rất thông suốt và linh thính vô cùng. Hiện thời bay giờ, như ai muốn đền ơn đáp nghĩa cho Địa Mẫu vô hình, phải sùng tu an tự, thờ phụng lửa hương cho Mẫu lẹ làng đi. Rồi về hình họa tượng của Mẫu phô trương lên cho người đời họ sùng bái. Như có cặp đôi bạn nào làm đặng y như lời nguyền này thì Mẫu sẽ nhìn nhận con rằng, con thảo dâu hiền của Mẫu. Hãy gắng sức thành tâm tạo lập cho mau lẹ đi, tùy gia vi hữu. Vì Mẫu chứng lòng người hảo tâm và thôi chớ chẳng chuộng tiền bạc nhiều đâu. Rồi nơi cõi hư không vô thượng, Mẫu sẽ nêu danh con thảo ấy vào trong thẻ ngọc. Chờ cho đến ngày nào con phủi sạch tâm phàm, Mẫu sẽ cho con hiển thánh về Trời lập tức. Bởi vì lòng con quảng đại nhơn đức thì con sẽ được trường sinh thọ khảo, Mẫu sẽ sắc tứ phong tặng và thưởng cho con một tòa sen càng chín phẩm. Đắc thành chánh quả nơi nước trung ương thượng quốc tại đền Rồng Đại La nọ chẳng xa. Phu phụ đồng đắc kim thân rực rỡ cũng như hình thể của thành Đại La kia vậy. Đền ấy là một đền vàng quý báu cực điểm vui vẻ vô cùng, để lưu truyền danh thơm tiếng tốt lại muôn đời vạn kiếp. Phật địa Mẫu ngự trên cõi thượng tầng tối cao hoằng hóa và bảo dưỡng nhơn sanh, trải hết lòng lành rất quảng đại như vậy đó Nam Mô A Di Đà Phật Nam Mô Nhất Tâm Thành Kính Chung. Địa Mẫu Kinh Lão bà tuy là vô hình vô tướng, chớ Lão cầm quyền sửa trị và khảo sát cả nhơn luân đạo lý. Vì bởi hồi mới mở mang ra một bầu không khí mù mù mịt mịt thì đã có Lão Mẫu này hóa sanh ra trước nhứt. Mẫu là lớn hơn hết. Cái người mà đã tạo ra Thiên, lập ra Địa là Mẫu đây, thật là người căn gốc đó. Thuở đó có một mình Mẫu đứng ra làm Thầy trước hết. Mẫu liềng khai hóa mở mang ra có một mối đạo và tuyên truyền phổ thông cũng có một phong tục cho tất cả nhơn loại mà thôi, chớ nào có ai đâu nữa. Đến đời hạ ngươn này, cũng là Lão Mẫu này giáng cơ bút truyền kinh này xuống trần phàm. Kêu cùng Thiện nam, Tín nữ như ai có lòng trắc ẩn tống phổ thông ra cho người đời, thì Mẫu bảo hộ cho đặng minh khang trường cửu. Còn như người nào dốc lòng dẫn nhơn sanh khắp cả cho ngộ được đời thượng ngươn thanh trị, thì phải hết lòng chỉ giáo cho nhơn sanh khắp cùng thế giới hãy rán trì niệm kinh Địa Mẫu thì sẽ được đắc thành sở nguyện chẳng sai. Như vậy mà từ hồi Mẫu lưu hành kinh này ra đời cho đến bây giờ. Mẫu chẳng hề thấy người nào hoặc gia đình nào vui lòng tụng kinh của Lão Mẫu ráo trọi. Chớ chi hồi Mẫu mới giáng bút truyền kinh này ra đời, nếu có kẻ nào sáng trí trì niệm liền theo, thì đã đắc thành Tiên thành Thánh lâu rồi. Còn như ai kia sanh tâm khi dễ nhạo báng kinh Địa Mẫu này, tạo gây thêm nhiều tội ác nghiệm thẩm sâu như đáy biển cả như vậy. Mẫu chẳng kể công lao tiêu tứ ra làm chi cho nhiều, xét lại nội trong hai chữ ăn với mặc, thì cũng từ nơi Mẫu khai sáng ra, sản xuất ramới có mà dùng cho được no ấm. Vậy mà có ai tri thức ra các nẻo khó khăn cay đắng của Mẫu là đường nào chăng ? Nếu hiểu biết rõ rệt rồi, thì nội trong hàng nam nhi liệt nữ ai là người chí hiếu với Mẫu đâu.Hãy đứng ra thay mặt đôi lời cho Mẫu bố cáo cho người đời hiểu biết rõ rệt rằng : Ba tai nạn sắp xẩy đến trước con mắt bây giờ. Khắp trong thiên hạ chung chịu đồ lao khổ sở trong vòng thiên tại đại này chẳng sai lầm. Vì tình Mẫu tử, Mẫu mới cạn tỏ phân trần. Nếu chúng con chẳng chịu ghi lời Mẹ vào tâm thì thôi, chớ thế sự cuộc đời, việc nào Mẫu cũng tiên tri tường tận, dù việc nào khó khăn nguy khốn cho thế mấy đi chăng nữa Mẫu cũng sẽ bình trị được hoàn toàn tất cả đó mà. Phật phát lạc rằng : trong 72 vị thần đương kim hành sự, vị nào cũng có chỗ có nơi, chung cùng hiệp hội cùng nhau tất cả. Trừ ra có một mình Lão Mẫu chẳng có nơi nào hiệp hội cùng ai đặng ráo. Khắp trong thiên hạ, xứ nào cũng có tạo lập chùa, miếu thờ phụngThần này Thánh kia. Bởi thế cho nên Thần Thánh tạo lập hội hè rầm rộ thường thường hoài chẳng dứt. Còn thân phận của Lão Mẫu này chẳng thấy ai nhớ đến cất cho Lão một ngôi miếu nhỏ mà coi thử : Đã vậy thì chớ, họ lại còn coi Lão Mẫu cũng như người chẳng có tên tuổi chi chi dưới cõi trần này ráo trọi. Bởi chúng con ở bạc cho nên Trời chẳng mưa thuận gió hòa đất thì chẳng sinh ra tươi nhuần sung túc như thuở trước. Quanh năm luống chịu loạn ly rối đoài, chẳng bao giờ bình yên được. Như vậy mà Mẫu vẫn còn đoái hoài chút tình thương,bèn hứa rằng : chẳng đợi người lớn con nít nhà ai, từ 9 tuổi sắp lên mà biết thọ trì kinh này, dầu cho cha mẹ, cốt nhục của nó có cách bức chia lìa bao nhiêu lâu đi nữa, Mẫu cũng tái hiệp trùng phùng trong buổi chung cuộc cuối cùng này chẳng sai. Chẳng luận giai cấp sang hèn, ai ai cũng đặng trọn quyền ấn tống phổ thông kinh này ra hết.Truyền ra cho khắp trong thiên hạ từ trẻ đến già đứng cho sơ sót một ai. Phổ thông ra như vậy mà người đời còn miễn cưỡng, chẳng khứng thọ trì kinh của Lão Mẫu này nữa. Thì họ chớ khá trách sao Mẫu này chẳng nhiêu dung tánh mạng của họ ra khỏi vòng thiên tai sắp xẩy đến này được. Hiện bây giờ họ phải đau ốm nhiều chứng bệnh rất nặng nề trong bốn mùa tám tiết. Đã vậy thì chớ, họ còn phải bị nắng hạn, tiêu hao hoặc mưa dầm ngập hết chẳng còn một vật thổ sản chi mà độ cho no lòng. Ấy vậy các con lớn bé gắng nhớ lời của Mẫu căn dặn cuối cùng này đây. Hãy hết lòng thọ trì kinh này và học cho suốt thông nghĩa lý. Rồi mau mau thuyết nghĩa ra, và truyền kinh lại cho người đời học với cho kịp. Còn như đáo lê kinh mậu, nếu chúng con dâng đèn bằng sáp thiệt lên cho Mẫu thì sẽ hạnh phúc nhiều. Mỗi tháng có ba ngày Mậu mà thôi, hãy thành tâm cung kính cho lắm đừng sai sót. Còn các ngày thường nhựt kia khỏi thất công lo liệu cúng kiến chi hết. Cứ việc cầu cung kỉnh 36 ngày Mậu trong thôi, chẳng còn chia ra ai đó. Còn lễ vật kính Mẫu thì có sáu ngọn đèn tỏ rạng 5 cây hương thơm. Bông hoa trà quả và 6 chung nước lọc sạch sẽ là đủ lễ rồi đó. Đến ngày kính Mẫu, thì nội nam gia nữ hãy xúm xít cùng nhau lo lập đàn tràng cho tinh khiết. Hễ đàn trang thành lập rồi thì khởi sự thuyết kinh giải lý cho thật dành. Rồi mỗi người tịnh tâm thầm gồm lại một chỗ mật trì cho đặng bảy biến như vậy là đủ. Người ở xứ nào mà làm đúng theo y chân truyền thì sẽ ngộ được đời thượng ngươn. Mẫu truyền báo trước cho chúng con biết rằng : hễ năm nào lúa mạch ngoài đồng gần chín, xảy có Mông Bạch hiện ra cùng phong thời đưa tới mạnh. Thìnội trong năm đó sẽ ngộ nạn khắc mà chết rụi hết từ già đến trẻ. Đó là điềm Trời báo ứng rằng : Thần ngũ cốc sẽ về Trời và trên Thiên Đình sẽ thu lại các giống ngũ cốc. Gieo hạt lại cho chúng sanh phải chịu cảnh cơ hàn đói lạnh mà chết như vậy đó. Nhưng vậy mà cũng có chỗ chừa chớ, là Mẫu chưa nơi nào có người đắc thọ trì kinh Địa Mẫu này. Mẫu sẽ bảo hộ vùng đó được trúng mùa phong nẫm mà thôi. Nhưng người nào đứng ra tuyên truyền phổ thông kinh Địa Mẫu này đầy đủ nghĩa lý, Mẫu sẽ sai các vị Thiên Thần và Gia Thần đồng theo ủng hộ kẻ ấy cho đặng an nhàn mãi. Trên Thiên Đình cũng nhỏ phước lành cho nhà người ấy, sẽ được thạnh phát tinh hoa tột bực cấp kỳ. Đồng thời Thần Thanh Long vàThần Bạch Hổ cũng giáng xuống phò tá kẻ ấy liền. Mẫu cho chứng rằng : vía giáng sanh của Mẫu nhằm ngày 18/10, đúng giờ ngọ, chẳng nên dời đổi qua giờ thìn, giờ tuất hoặc giờ sửu, giờ mùi không đặng. Đúng ngày thánh thì giờ nhứt định trên đây, chúng con hãy tựu họp lại một chỗ cho thật đông, đặng mà chiêm ngưỡng. Mẫu sẽ hiển thánh chứng minh cho nơi đàng mà hết lòng thành kính Mẫu đó mà thôi. Còn như những người ở những phương hướng hay thường hành kinh Đia Mẫu này,thì có lo chi mùa màng chẳng trúng gia. Nhà nào mà hay thường hành kinh Địa Mẫu này thì người trong nhà ấy sẽ được đắc quả chẳng sai không lầm. Mẫu cho chúng con biết rằng : Kinh Địa Mẫu là một trong những quyển kinh quí báu bậc nhất, chẳng nên khi dễ. Chính vì người đời hãy còn mê muội dốt nát, chẳng biết ý thức tý tầm nguyên rất uổng, nếu ai được ngộ tỉnh thọ trì ròng rã quyển kinh này thì tiêu tội được một ngàn kiếp. Được công đức nhiều hơn thọ trì của các chư Phật cả muôn quyển. Như ai đạt thông nghĩa đặng từ câu trong kinh này thì người đó sẽ phóng qua minh soi tường tận khắp cả bầu trời. Như ai đạt thông nghĩa đặng từ câu trong kinh này ,thì người đó sẽ chữa được tội lỗi và oan khiên, nghiệp báo của mình sạch trọi. Như ai đạt thông nghĩa lý từng hàng, thì người đó đã tiêu đặng tai nạn sắp xảy đến, lại còn được ban thưởng phước lộc thọ an toàn là khác. Còn như ai suốt thông nghĩa lý đặng toàn quyển thìđích danh Mẫu sẽ bảo đảm cho đặng an nhàn tự toại đời kiếp kiếp.Nhược bằng ai có nghe thuyết kinh này rồi mà bỏ qua, chẳng khứng thọ trì, thì chẳng nhữngmột mình người ấy bị khép vào tội phỉ báng kinh luật mà toàn gia đồng phạm tội liên can, mắc kẹt trong vòng đại kiếp sạch trọi. Dân sự nước nào mà chẳng biểu đồng tình chẳng tuân lời của Mẫu trong kinh này, thì sẽ lâm vào trong vòng đại kiếp Thủy, Hỏa, Phong ba mà chết rụi hết chẳng còn. Mẫu này cũng muốn hưu hủy kiếp phong ba,Thủy, Hỏa này sắp đến lắm chớ. Ngặt vì chúng con chẳng chịu quay đầu trở lại tùng theo một lòng với Mẫu. Lão Mẫu này muốn bác bỏ sổ BộTư kia cho rồi, vì Mẫu thấy số phận của chúng con bị chết quá nhiều như vậy, Mẫu chẳng đành lòng làm ngơ. Mẫu tính tới, tính lui hoài tính không ra kế nào mà cứu chúng con. Rốt cuộc, Mẫu bèn dùng chước, Mẫu sai hai phái thiện thần và ác thần xuống trần tiếp dẫn chúng con.Những người hiền lương quân tử, sẽ được về tay các thiện thần dẫn dắt vào đường tu niệm chánh giác. Còn những kẻ bất lương hung bạo sẽ nhập đẳng với các vị ác thần, giáo dục và đường tà, dâm, tàn nhẫn, độc ác. Đến ngày chung cuộc Mẫu sẽ vãi ra một chài. Mẫu sẽ thâu tóm tất cả hai phe vào hộc. Làm cho luyên lụy để kẻ tu hành tâm táng đởm trong khi bị túm, đến chừng đó Mẫu sẽ khiến cho ai nấy được sóng sót lại sẽ đủ trí tuệ biết phân biệt tà với chánh, thiện với ác tức thì. Rồi có các đạo chúng khắp trong thiên hạ, đồng xui lòng qui tụ về một lối Chánh Đạo của Mẫu ta đây mà thôi, chẳng còn chia rẽ ra nhiều lối nữa. Hình mạo trạng tướng cai chài phép của Mẫu sẽ tỏa ra như vậy : Mẫu sẽ điều khiển Nhị Thập Bát Tú, phải phân thần như vậy từ hướng chánh Bắc giáp qua hướng chánh Nam. Mẫu sẽ điều khiển sáu chục vị Thần mặc giáp bông bào chia tách ra bao phủ từ hướngTây Bắc giáp qua Tây Nam. Mẫu sẽ điều khiển mười vị Thần Thiên Can với mười hai vị Thần Địa Chi. Cùng tất cả các vị Tinh Tú trên chín tầng trời, phải chầu chực ủng hộ ngôi Thi Vi Hoàng Đế cho hoàn toàn. Mẫu sẽ điều khiển các vị Thần Lôi Công và Lôi Điển trong tám phương, phải phân thân ra trấn thủ cho đủ 64. Rồi hiện ra nguyên hình tay cầm binh khí đứng dàn ra khắp trong thiên hạ đò của Mẫu sẽ lập thành dưới miền hạ giới nơi cõi Trời nam từ năm Đinh Hợi giáp qua năm Thân Dậu mới thiệt rồi. Trên Trời thì Mẫu bủa lưới thiên la, dưới đất thì Mẫu chài dập địa võng, làm cho Thiên ám Địa hôn, quỷ khốc thần sầu rất thảm thiết. Mẫu sẽ vời tám vị Thần đại lực kim cang vào trận hóa pháp. Vì bốn vị tứ đại thiên vương phải giữ gìn bốn cửa trận cho Mẫu. Đến chừng tám vị Đại Kim Cang xông vào trận thượng. Sẽ dùng đại lực thần thông làm choTrời nghiêng, Đất ngửa, Nhựt, Nguyệt, Tinh, Tú, Châu hỏa đảo xây như chong chóng rồi lặn mất chẳng còn hiện ra nữa. Còn phần việc của Mẫu, Mẫu sẽ thâu lại các giống bất lương với loài yêu lăng tà mỵ, làm cho chúng nó phải bị luân hồi trả quả sạch trọi. Mẫu sẽ hô phong hoán vũ thích lịch lôi đình làm cho sấm nổ, nước trần, lửa dạy, bão tố khắp vùng Trời Đất. Chừng Mẫu thâu lại rồi các giống bất lương và các loài cô dụng nghĩa là chừng sóng lặn, gió tan, nước rút hết. Sẽ thấy khắp vùng vũ trụ, còn sóng sót lại giống người hiền lương chơn thật mà thôi. Rồi đó Mẫu dùng huyền công diệp pháp hóa ra. Kinh đô thành thị có sen vàng đua nở giáp vàng bốn phía. Đến chừng đó, con thảo dâu hiền Mẫu sẽ được đổi xác kim thân bất hoại. Chứng quả Đại La Tiên Thiên vĩnh viễn, chẳng còn tái sanh, tái tử nữa. Vì bởi công quả của các con là được song toàn thì các con sẽ được vào phó hội Bàn Đào. Bàn Đào đại hội là nơi đãi yến Đào Tiên rượu cúc, thọ hưởng vinh phong cao ngôi lớn tước. Rồi thì đó vĩnh biệt về sau chẳng còn chuyển kiếp xuống miền Đông Đông Độ là nơi cõi trần phàm tục nữa. Vì chúng con sẽ được trường sanh,thọ khảo, tiêu diêu khoái lạc như Lão Mẫu này đây vậy, nghĩa là : Phật Địa Mẫu ngự trên cõi thượng tuần tối cao, hoằng hóa dưỡng dục nhơn sinh và bảo toàn tánh mạng trải hết lòng thành rất quảng đại như vậy đó. Chúng con tỉnh nguyện tu theo kinh này đặng lập công bồi đức, hầu ngày theo ấn tống phổ thông ra cho mỗi người đều biết, chúng con hết lòng cung kính dành lễ Phật Mẫu, cầu xin với Mẫu Hoàng ban rải phước huệ xuống cho chúng con nhờ miên viễn. Phật Địa Mẫu ngự trên cõi Hư Không Tối Thượng, đặt ra quyển Chơn Kinh này đặng khuyên răn đời dưỡng dục và bảo tồn tánh mạng cho tất cả chúng sinh. Nam Mô A Di Đà Phật Nam Mô Nhất Tâm Thành Kính Chung. Nguồn : sưu tầm

aaaa

các bài Phật Pháp