Thứ Tư, 31 tháng 5, 2017

Đò Chiều

Đò Chiều

Trong cảnh mặt trời sắp khuất xuống núi, khách lữ hành vội vàng bước xuống bờ sông để đi đò qua bến kia, mau kịp về trong bóng hoàng hôn chợp chờn buổi chiều tà mờ nhạc hoang sơ. Khi vừa bước cho kịp chuyến đò cuối của buổi chiều tà, khách lại bàng hoàng lo lắng không biết con đò còn đợi kịp mình hay không. Vì nếu lỡ chuyến đò chiều nay thì khách lại phải đợi đến sáng mai mới qua sông được. Và trong đêm tối, khách phải kiếm chổ trú tạm qua đêm hay phải đương đầu với bao nổi bất trắc có thể xảy ra trong đêm trường cô tịch. Những ai đã từng đối diện với cảnh nầy, sẽ cảm nhận được nỗi khó khăn, vừa lo lắng cho cảnh khổ hiện tại vừa lo cho ở nhà mọi người đang trông mong mà mình chưa về được. Để diễn tả cảnh nầy trước đây có một nhà thơ kiêm họa sĩ đã vẽ lại buổi đò chiều và ghi lại hai câu thơ như sau :
 Sương đã dâng lên chiều lăng xuống 
 Chuyến đò sắp tách bến sang sông ! 
 Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ mà Đức Chí Tôn khai mở cũng vừa đúng vào buổi hạ ngươn mạc kiếp, là ngươn cuối cùng của một chu kỳ vận hành tấn hóa của càn khôn vũ trụ. Sự mở Đạo của Thầy cũng không khác gì buổi đò chiều, vì thế mà Đức Mẹ nhiều lần đã giục chúng ta.
 Con chớ có dần dà trễ bước
 Trễ bước rồi không được an thân 
 Muôn năm mới có một lần 
 Lần ba không gặp vô phần lắm con. 
( Đức Mẹ dạy Tý thời ngày 19 - 5 Ất Tỵ năm 1956 ) Chuyến đò chiều của lữ khách nếu trễ thì đợi đến sáng mai sẽ có chuyến đò mới của ngày hôm sau. Nhưng chuyến đò của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do Thầy mở thì muôn năm mới có một lần, thì rõ ràng đây là cơ hội cuối cùng và tối hậu để chúng ta leo đò trở về bến khởi nguyên. Vì từ bến khởi nguyên ra đi Thầy có dạy :
" Một sứ mạng Thầy dành hai ngã, một ra đi một trở lại Thầy " " Nếu chậm chạp thì lỡ chuyến đò chiều " nầy thì làm sao mà trở lại được, chẳng lẽ phải đợi đến thất ức niên sau ! Ôi ! không có gì bất hạnh cho bằng Trong buổi đàn ngày 19 tháng giêng năm Đinh Mão ( 20 - 2 - 1927 ) Đức Chí Tôn có dạy :
" Tạo hóa đã sắp bày độ dẫn, nhuần gội ân huệ cho sanh linh đương buổi hạ ngươn nầy. Ta vì đức háo sanh, mượn giọt từ bi hội tam giáo mà rưới khắp càn khôn để độ rước những bậc chí thánh đọa trần trước khi Thiên điều hình phạt. Họa Âu, tai Á sẽ vì nơi Thiên thơ mà sát phạt gieo sầu, đổ thảm cho những giống dân nào đã vì hung bạo mà gây nên điều thán oán khắp cả càn khôn nầy. Ai mau bước đặng gặp mối chánh dẫn truyền mà lần hồi lập công chiết quả để lánh cả muôn điều não về sau. Chúng sanh khá biết cho... Thế nên Thầy đã dạy "
Trời chiều đò chót rán qua mau
Trễ chuyến nầy đây khổ biết bao
Bốn hướng mịt mù không nẻo tới
Năm nơi hắc ám khốn đường sau !
Cọp beo gầm giỡn trên rừng rậm
Trăn rắn vừa bơi dưới vực sâu
Chỉ xuống thuyền ông là thoát chết
Kêu nhau mau xuống, xuống qua mau ".
Nhưng cũng vì vô minh che lấp, nên con người không biết được điều hư, lẽ thực cứ lúng túng trong đường danh lợi rồi tạo nghiệp và bị nghiệp báo. Việc nầy Đức Hải Triều Thánh Nhân đã dạy :
 Đời nhằm lúc phân tranh tiêu diệt
 Ai thấu cơ hư thiệt mà lường 
 Liên miên chồng chất tai ương 
 Nhơn sanh lúng túng trong đường lợi danh 
 Mãi mãi cứ chạy quanh xin xỏ 
 Mãi mãi toan trông đó, ngó đây 
 Hay là phải chịu họa lây tội tràn. 
Và cũng vì thế mà Đức Chí Tôn đã khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
" Trời vì thương chúng sanh khổ não 
Bèn khai sinh Đại Đạo cứu đời 
Thoát vòng bể khổ trần vơi 
Khỏi vòng luân chuyển luân hồi đọa sa". 
 Khi nói về chuyến Đò, thiết nghỉ ta phải hiểu là phương tiện.Vì lẽ Đạo là mặc nhiên bản thể, vô thủy, vô chung, là cơ quan sanh hóa muôn loài vạn vật, là cơ vận chuyển càn khôn vũ trụ. Còn các tôn giáo được ví như những phương tiện để cảm hóa sanh hay là những phương tiện để cảm hóa nhơn sanh hay là những chuyến đò đưa nhơn sanh từ bờ mê qua bến giác để về được với Đạo, do đó tôn giáo thì có nhiều mà Đạo thì chỉ có một, một là chân lý vậy. Đạo Trời biến hóa vô thủy, vô chung, nhưng trước sau bản thể vẫn là một. Nói đến Đạo là nói đến chân lý. Chân lý rất giản dị, cái giản dị của chân lý là cuộc gặp gỡ nhau, gặp gỡ nhau ở lẽ một và một là ngôi nhất.    

Thầy lược giải huyền vi số một 
Một là nhất quán vĩnh tồn sinh 

 Một là vốn diệu linh tiến hóa 

 Một là sinh tất cả 

 Khắp trong vũ trụ rộng dài 
 Đều do một Đạo Cao Đài hóa sinh 

 Và Đức Chí Tôn đã dạy :
 " Đạo là ngôi nhất nguyên chủ thể 
 Đạo cũng là đồng thể vạn linh 
 Từ trong vạn vật hữu hình 
 Nhơn thân xã hội gia đình nước non
 Đạo là lẽ các con đang sống 
 Đạo là quyền cao trọng che chở 
 Thu đông mãn đến xuân hè 
 Vận hành Thiên Đạo mọi bề dưỡng nuôi
 Đạo chẳng luận ở nơi vương bá 
 Đạo không phân sằn giả lâm bô 
 Dấng thân trên nẻo thế đồ 
 Con mang cái Đạo từ giờ mới sanh " 
( Thiên Lý Đàn Ngọ thời 13 - 4 Đinh Mùi 21 - 5 - 1967 ) Qua đó ta biết được Đạo là cứu cánh còn Tôn Giáo là phương tiện, cũng vì tôn giáo được ví như những chuyến đò nên Đức Đạo Thoàn Chơn Nhơn giáng Đàn tại Vĩnh Nguyên Tự đã nói như thế nầy :
" Người muốn tu hành lão chỉ cho 
 Qua sông phải tạm mượn con đò 
 Sang bờ vạn pháp nên rời bỏ 
 Một túi càn khôn vạn chưởng cơ " 
Trong câu : " qua sông phải tạm mượn con đò " ở đây có nghĩa là cần phải nương theo cái phương tiện tôn giáo để về bến giác, chứ tôn giáo không phải là cứu cánh và đến được bến giác thì phải rời khỏi cái phương tiện, ở đây tôn giáo được xem như là con đò, là phương tiện hay ngón tay của Đức Phật chỉ ánh trăng chỉ là phương tiện, nếu ta cứ nhìn mãi ngón tay Phật thì chúng ta sẽ không bao giờ thấy ánh trăng. Và nói về cảnh đò chiều thì Đạo Trưởng Huệ Lương sau khi thoát xác, đắc phẩm vị Quảng Đức Chơn Tiên cũng về đàn tâm sự
" Nhìn nhau bỗng rưng rưng giọt lệ 
 Nỗi mừng thương huynh đệ thiên ân 
 Mừng vì đường lối chánh chân 
 Thương vì sứ mạng lắm phần gây go 
 Thôi thì thôi chuyến đò buổi chót
 Lòng dặn lòng đắng ngọt chớ nao " 
Qua đó ta thấy Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là chuyến đò cuối cùng mà Đức Chí Tôn đã mở ra để đưa con cái của Ngài trở về bến khởi nguyên hầu lập đời thượng ngươn Thánh Đức. Cùng ý nghĩa tôn giáo là chiếc đò để đưa nhân sanh trở về bến khởi nguyên. Đức kitô giảng dạy ở Hườn Cung Đàn :
" Thế gian ai cũng qua đò
Sang bờ giác ngạn lần dò đi lên"
Như vậy khi sang bờ giác chúng ta lại phải rời khỏi con đò để tiếp tục con đường tu hành ở cõi trên. Điều đó có nghĩa rằng nếu sống ở cõi nhị nguyên nầy là ta không vận dụng hết phương tiện là pháp môn tam công của Đại Đạo để tu chứng thì sau khi rời khỏi con đò ta lại còn phải tiếp tục tu học rất khó khăn đúng như câu :
" Sang bờ giác ngạn lần dò đi lên ".
Chữ lần dò cho thấy nỗi khó khăn đó. Nhưng hiện nay thế nhân đang hụp lặn trong cảnh trần, đang bon chen tranh giành giữa buồn vui được mất. Mấy ai hiểu được cảnh đò chiều ! đúng như lời Đức Quan Âm đã dạy: Lên Đò Tam Kỳ Sang Bên Giác.

1. Dẫn Nhập : 
 Kim ô khuất núi bóng chiều tà 
 Lữ khách tìm đò qua bến giác 
 Đò buổi Tam Kỳ đang rước khách 
 Trễ đò lo ngại nước non xa 
 Nước non xa trải qua tăm tối 
 Biết nơi đâu tìm lối trú đêm 
 Đường xa cảnh lạ nỗi niềm 
 Tấm lòng lữ khách còn thêm bồn chồn 
 Sương bao phủ hoàng hôn cô tịch 
 Mong đò chiều chủ đích sang sông 
 Trễ đò lỡ bước nao lòng 
 Khổ trần đuổi tới đò không đợi chờ 
 Đợi chờ lữ khách muốn qua sông 
 Hai chữ Cao Đài nhớ dặn lòng 
 Ngươn cuối Hoàng Thiên ra cứu độ 
 Trễ đò lỡ cuộc chịu long đong.

2 - Lời Mẹ Dạy : 
 " Con chớ có dần dà trễ bước 
 Trễ bước rồi không được an thân 
 Muôn năm mới có một lần 
 Lần ba không gặp vô phần lắm con "

3. - Minh Luận : 
 Người trể đò thon von tất dạ 
Phật, Thánh, Tiên cũng đã trao truyền 
 Đò Trời rước khách hữu duyên 
 Muôn năm mới có chơn truyền
 Đạo Cha Bến khởi nguyên ai mà có nhớ ?
Thầy dạy rằng hồn có hai đường
Ra đi phải nhớ liệu lường
Đường về nhắm hướng tầm phương Cao Đài
Thất ức niên lâu dài chuyển kiếp
Biển trần ai liên tiếp nổi trôi
Biết bao sóng dập gió dồi
Muôn ngàn kiếp học biển đời khổ đau
Đò Tam Kỳ mau mau bước xuống
Phước Cao Đài cuồn cuộn huyền linh
Phật, Tiên, Thần, Thánh đồng tình
Phò cơ đại xá, đại linh, đại toàn
Đời cuối tận Ngọc Hoàng cứu thế
Quãng Đức Tiên kể lễ sự tình
Chờ đò khá vững đức tin
Bền tâm, định, đinh ninh sở cầu
Tình đồng đạo nao nao giọt lệ
Nỗi mừng thương huynh đệ Thiên Ân
Mừng vì đường lối chánh chơn
Thương vì sứ mạng lắm phần gay go
Thôi thì thôi chuyến đò buổi chót
Lòng dặn lòng đắng ngọt chớ nao
Cao Đài hiển hích một màu
Là màu cứu thế đi vào thượng ngươn
Chúa Kitô ban ơn dạy dỗ
Hườn cung đàn nhắc nhở qua đò
Sang bờ giác ngạn lần đò
Tâm linh mẫn tiệp, môn đồ đi lên
Chớ mê đời trần miền kẹt lại
Cõi nhị nguyên còn phải học bài
Học bài tiến hóa học hoài
Lần dò học mãi đường dài gian nan
Hiện cõi trần thế nhơn lặn hụp
Miếng đỉnh chung lục đục đua chen
Tranh ăn giành sống đã quen
Người sang cũng lắm người hèn cũng đông
Khó kiếm người một lòng vì Đạo
Vì phàm tâm thông thạo mùi đời
Nghe Đạo thì vội bật cười
Bao người mê ngủ biếng lười chuyện tu
Thương cho kẻ lu bu danh lợi
Buồn cho người tiến tới sông mê
Phật, Trời kêu gọi không về
Vẫn còn lãng đãng như hề phóng tâm !
Tội cho kẻ lạc lầm phiêu bạt 
 Chẳng mấy ai cánh hạt tung bay 
Cao Đài tận độ lần nầy  
Là cơ hội chót cho ai chán đời 
 Đường tối hậu ai người để bước 
 Phải làm sao ngộ được chơn tâm 
 Phật Tiên dạy phép giải phàm 
 Tiền khai Đại Đạo dạy tầm Như Lai.
Và trong cảnh đò chiều tại thế 
Môn đệ Thầy được kể phước dư 
Chí Tôn, Kim Mẫu, Đại Sư 
 Điển lành ban bố , bút cơ giáo truyền 
 Bày chơn lý Tiên Thiên Đại Đạo 
 Đánh thức tâm bổ báo phước lành 
 Siêu phàm nhập Thánh dạy rành 
 Căn Tiên, cốt Phật thượng thanh qui hồi 
 Lên đò chiều thoát rồi kiếp nạn 
 Bờ giác kia tỏ rạng chủ ông 
 Tâm linh kiên cố nơi lòng 
 Thế Thiên hành hóa kỳ công đắc thành 
 Bước lên đò tu hành tích cực 
 Hành tam công gắng sức vượt lên 
 Nhơn hiền, Thánh Triết, Phật Tiên 
 Ngàn năm một thuở phỉ quyền ước ao 
 Công phu khó, làm sao chu tất 
Khai Huyền Quan cẩn mật hành trì 
 Rước đưa huynh đệ cùng đi theo Thầy 
Công trình Đạo ngày ngày sữa nết 
 Nết Phật Tiên sạch hết tâm đời 
 Cái ta hòa với cái người 
 Hòa đồng huynh đệ con Trời chánh tu 
 Mười điều răn công phu, công quả 
 Thêm công trình nhứt dạ sắc son 
 Thăng hoa siêu diệu linh hồn 
 Trở về cực lạc vĩnh tồn muôn thu 
 Một: xin nhớ công phu bất thối 
 Luyện khí thần sớm tối tinh minh 
 Tham thiền tự nhủ nơi mình 
 Trò đời, thế sự, bóng hình, tựu tan. 
Hai: khẳng định thế gian tạm bợ 
 Dù Đế Vương cũng nợ trần hồng 
 Thói phàm dẹp sạch nơi lòng 
 Đò Trời tách bến xuôi dòng trường giang 
Ba: nhứt quyết lên thuyền Bát Nhã 
Khổ trần ai lòng đã chán rồi 
 Tìm nguồn an lạc đời đời 
 Một lần siêu thoát để lời khuyến tu 
Bốn: cẩn mật công phu chuyển dục 
 Khai Thiên Môn phá ngục trần gian 
 Dẹp tan tánh khí lăng loàn 
 Cá nhơn chủ nghĩa theo đàng Như Lai 
Năm: chớ quên xác trần tạm bợ 
 Không bám vào món nợ trầm luân
 Không thái quá, chẳng lưng chừng 
 Đạo thường tu tiến xin đừng bôi lem 
Sáu: tự xét lem nhem tục tánh 
 Học trò Tiên xa lánh đường tà 
 Tự ta chuyển dục trừ ma 
 Đò chiều đợi khách ấy là dĩ nhiên 
Bảy: căn tội con Tiên cháu Phật 
 Giữ tinh anh phẩm chất Như Lai 
Huyền quan khi đã hoát khai  
Bản năng thanh tịnh thiên tài vạn an 
Tám: vận dụng trí năng biện luận 
 Giữ âm thầm nghịch thuận phân minh 
 Chung qui siêu xuất tánh linh 
Âm dương thần khí quân bình Bổn lai 
Chín: nhơn phẩm miệt mài năng lực 
 Người chơn tu tự sức giác năng 
 Linh quang diệu giác thường hằng 
 Phật tâm siêu xuất theo lằn điển quang 
Mười: kinh nghiệm thế gian đã biết 
 Xuất kim ngôn nghi tiết đành rành 
 Giải kinh vô tự mối manh 
 Thiện duyên vui bước đường lành hồi nguyên 
 Nói chung lại khách thuyền nghịch chuyển 
 Khai Thiên Môn trực tiến siêu thăng 
 Rõ ràng trí tuệ lương năng 
 Đò Trời thẳng hướng đưa sang 
 Thiên Đình Đạo tu tiến do lòng định tĩnh 
 Dẹp sạch tình chủ định kim thân 
 Minh tâm, kiến tánh, rạng thần 
 Chủ ông vững mạnh chơn thân siêu phàm 
 Dụng thần khí chủ tâm làm gốc 
 Đức Đông Phương dạy học rành rành 
 Người tu khử trược lưu thanh 
 Tam hoa tụ đảnh, ngũ hành triều ngươn.

4 - Kết Luận :
 Chủ ông gặp chuyến đò chiều 
 Giải hết phàm tình địa ngục tiêu 
 Thầy Mẹ dạy khuyên tâm giác ngộ 
 Phật, Tiên truyền dạy hạnh cao siêu 
 Nhơn hiền lẫn tục tu cần tiến 
 Thánh Triết lên đò học hỏi nhiều 
 Nên biết cơ đời đang cuối tận 
 Không tu cam chịu cảnh tiêu điều 
 Tiêu điều nhơn loại chịu lầm than 
 Địa ách, nhơn tai diễn đủ màn 
 Xuống biển chịu nhiều cơn bão tố 
 Lên đò mới tránh khỏi gian nan 
 Tam Kỳ mở hội kêu đời tỉnh 
 Đại Đạo hoằng khai cứu thế gian 
 Kẻ tri đoái nhìn cơ mạc pháp 
 Chủ ông giác ngộ sống huy hoàng. 
 Hằng Niệm Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát sau đây là lời dạy hết sức đặc biệt của Đức Di Lạc Thiên Tôn.
  
Kệ 1 :
Tám muôn bốn ngàn pháp
Vào thời kỳ mạc kiếp
Dễ tu có mỗi món Niệm Cao Đài
Thượng Đế Các dục vọng tiêu tan
Tâm trí được sáng suốt
Niệm Thầy một lòng thành
Được trở về Thiên Quốc.
Kệ 2 :
Tất cả tấm lòng thành
Gom vào niệm Thượng Đế
Khi niệm ấy phát lên
Vang rền trong Trời Đất
Rừng mê cháy sạch không
Biển khổ lắp bằng mặt
Chở trong cái hoát nhiên
Ngộ Thiên nhân hiệp nhất.
Kệ 3 :
Niệm Cao Đài Thượng Đế
Nối liền không hề dứt
Lục tặc hết đường sanh
Tam bành không chổ xuất
Tan dần nẻo ngục môn
Hiện rõ đường Thiên Quốc
Sức mầu nhiệm vô cùng
Khi được đầy công đức
Kệ 4 :
Ai đứng niệm danh Thầy
Nằm ngồi tri thương phụ
Thức cũng tưởng Cao Đài
Ngủ cũng nghỉ Thượng Đế
Nói cũng nhớ Nam Mô
Nín cũng ôm Đạo Sư.

Đọc xong bài đò chiều mà chúng ta cũng chưa nhận ra được đây là chuyến đò cuối cùng để leo lên trở về bến giác, thì chúng ta có đứng ở bờ mê kêu la cũng vô ích. Vì Đức Mẹ có dạy : "
Chừng đời thuyền bơ vơ trẻ ngọc 
 Đứng kêu la than khóc nỉ non 
 Làm sao Mẹ rước hởi con 
 Bởi vì luật định tại con trễ kỳ. 
" Trích Lục Theo kinh tam ngươn giác thế ( chiếu minh đàn cần thơ, nhà in phương nam, do tiền bối cao triều trực ấn tống ) trong đàn cơ ngày 2 - 11 Tân Mùi thứ năm ngày 10 - 12 - 1951, Đức Thần Oai Viễn Trấn Quan Thánh Đế Quân giáng dạy như sau :
 " Phàm người tu hành mà đặt đặng một bộ kinh sám mà khuyên chúng ta làm lành thì người ấy đặng thành Tiên. Nghĩ Vụng Lời dạy của Đức Hiệp Thiên Đại Đế Tam Trấn Oai nghiêm soi rọi cho mọi người thấy rằng việc tiếp tay phổ truyền cho văn hóa Đạo đức sâu rộng trong xã hội nhân sinh để góp phần xây dựng cuộc đời trở nên thuần lương, Thánh thiện là một việc rất quan trọng, rất cao quý. Đó là lý do kinh sách tam giáo xưa nay luôn đề cao việc pháp thí. Người có trí năng thì thuyết giảng, biên soạn. Người có tài chánh thì ấn tống. Thậm chí người thiếu khả năng để làm một trong hai việc ấy cũng vẫn thừa sức thực hành pháp thí, nhưng bằng cách nào ? Thực hành rất đơn giản, bằng cách biết trân trọng Thánh Kinh hiền, truyện, sách vở Đạo lý, chẳng những giữ gìn cho chính mình đọc mà còn tùy cơ hội thích hợp, chân thành giới thiệu cho người khác cùng đọc, cùng chia sẽ với nhau những ý vị thanh cao để noi theo đó làm đẹp cuộc, trau luyện tâm hồn, giúp tư tưởng luôn luôn gần gũi lời Tiên tiếng Phật".

Cảm Nhận Cửa Thiên Thầy gọi rán tu đa
 Lập đức, lập công cửa Đạo nhà
 Giữ vững niềm tin tìm Chánh Giáo
 Lần đường đi đến Ngọc Hư mà
 Danh phận cho tròn công quả ta
 Phận sự chung lo cửa Đạo nhà
 Mỗi kẻ, mỗi người, đồng chung sức
 Xây dựng chung cho một ngôi nhà
 Hai bên Đời, Đạo giữ cho tròn
 Phải biết gìn lòng dạ sắc son
 Lập đức, lập công là trong dạ
 Hiến dâng Phật Mẫu, Đức Chí Tôn.
Thương kẻ tục dãi dầu sớm tối
 Chốn hồng trần không lối thoát ra
 Thế gian cứ tưởng là nhà
 Lo xây kiên cố ở mà muôn năm.
 Người ta thường xếp thế nhân thành ba loại người, những kẻ thượng sĩ thì ưa thích nghe Đạo lý và làm theo, kẻ trung sĩ cũng thích nghe Đạo nhưng lúc nhớ lúc không, lúc nghe Đạo giống như đang ngủ bị người ta đánh thức dậy, nhưng khi người ta đi rồi lại ngủ tiếp, không còn biết Đạo là gì, còn kẻ hạ sĩ thì nghe Đạo là chế nhiễu. Nhưng tất cả mọi người đều có Phật tánh như Đức Phật hằng nói :
" Chúng sanh gia hữu Phật tánh " Họ cũng tin tưởng vào đời sống tâm linh, nhưng do giành quá thời gian cho cuộc mưu sinh rồi tự dẫn dắt mình vào con đường lầm lạc. Trong kinh Sám Hối có câu :                           
" Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật 
 Mà trong lòng chẳng thật kỉnh thành 
 Lâm nguy miệng vái làm lành 
 Tai qua nạn khỏi dạ đành phụ vong ". 
Nhưng ngặt nỗi thời gian đâu có chờ đợi ai. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trước đây đã than cho số phận ngắn ngủi của kiếp người :
" Bao nhiêu năm làm kiếp con người 
 Chợt một chiều tóc trắng như vôi 
 Lá úa trên cao rụng đầy 
 Cho trăm năm vào chết một ngày ! " 
Trăm năm bận rộn với những toan tính hơn thua, so với cuộc đời con người thì dài nhưng khi đầu tóc của mình đã điểm bạc thì thấy rằng thời gian chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, mọi việc điều vô thường, chuyển biến rất nhanh. Nhưng đến lúc ấy có còn kịp chuyến đò chăng ? Cuộc sống con người thật ngắn ngủi. Xin kể lại câu chuyện của ba ông già ngồi uống rượu tâm sự với nhau. Ông già thứ nhất thì sợ không biết hôm nay cùng nhau ăn uống như thế nầy nhưng năm sau không biết có cùng nhau đối ẩm nữa không ? ông ta mới nói câu thơ chữ nho như vầy :
" Kim niên tịch tữu diên tiền hội 
 Bách tri lai niên hựu thiếu thùy " 
Nghĩa là hôm nay tiệc rượu cùng ăn uống, chẳng biết sang năm thiếu mặt nào ? Ông già thứ hai lại nghĩ rằng đời nầy sống chết chỉ cần qua đêm, nếu trúng gió không biết sáng mai có mặt ở cõi đời nầy hay không ? Ông ta nói :
" Kim vãng thoát hạ hài hòa miệt 
 Bất tri thiên minh xiên bất xiên " 
Nghĩa là đêm nay giày vớ cởi ra hết, chẳng biết sáng ngày xỏ lại không. Ông bà thứ ba lại cho rằng cái chết có ngắn ngủi hơn đâu cần qua một đêm :
 " Giá khẩu ký khí nhiên xuất khứ 
 Bất tri tấn lai, bất tấn lai" 
 Nghĩa là hơi thở nầy đây phì khỏi miệng, chẳng hay trở lại hoặc đi luôn. Có người bảo rằng bây giờ tôi bận nhưng sau nầy khi tôi có thời gian tôi sẽ đi tu. Cuộc sống vô thường nơi cõi tạm, sống nay, thác mai, biết liệu có thể sống thọ để tu rồi mới chết ? Việc nầy Đức Mẹ Diêu Trì có lần giáng dạy tại Thánh Thất Kim Long Thành - Định Tường Mẹ dạy như sau :
" Khi tư thần vô thường đến bắt 
 Hẹn được chăng tôi mắc việc nầy 
 Rảnh rang tôi sẽ nương tay ông liền 
 Hay là con nhào nghiêng ngã ngửa 
 Dứt hơi liền giữa bữa cơm ngon 
 Để cùng thần tử dời chơn 
 Về nơi cảnh giới giã chơn biết nào ? " 
 Cũng có người biết con đường tu là con đường tối hậu mà hành giả phải đi để không bị sa đọa vào lúc đạo luân hồi, nhưng không ngộ được chơn tâm, nên còn bán tin, bán nghi, lúc tin, lúc ngờ bởi còn bị vô minh che mắt. Do đó ta phải xác định tư tưởng và dứt khoát mạnh dạng bước lên đò chiều như ơn trên dạy :
" Đã biết là bể dâu thay đổi 
 Đã biết rằng mây nổi rồi tan 
 Hơi mô nói chuyện đinh hoàn lo
 Đường đạo đức thanh nhàn dài lâu ". 
 Và trong cảnh đò chiều tại thế gian nầy, chúng ta may mắn được sanh vào thời kỳ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khai mở của Đức Chí Tôn, được Thầy Mẹ và các đấng trực tiếp ban bố điển lành bằng cơ bút.Nên chúng ta học hiểu được giáo lý, như Đức Mẹ đã dạy :

" Tu phải học hiểu qua giáo lý 
 Giáo lý là kim chỉ hướng nam 
 Cho con nhập Thánh siêu phàm 
 Thoát vòng luân chuyển con tằm nhộng tơ 
 Học cho hiểu bến bờ mê giác 
 Học cho thông thiện ác đọa siêu 
 Con học nhiều sẽ hiểu nhiều 
 Hiểu hành càng kỹ càng siêu thoát về " 
 Và khi thân ta còn tráng kiện, tâm trí ta còn minh mẫn, ta phải lo tu thân sửa tánh, ra sức hành Đạo, lâp công bồi đức để đem Đạo cứu đời. Nếu không đến chừng già yếu tóc bạc, da mồi thân thể gầy gò bịnh hoạn ốm đau không làm gì được để giúp đời, giúp Đạo, chúng ta sẽ ân hận thì đã muộn màng. Việc nầy Đức Lý Giáo đã dạy trong một đàn cơ tại cơ quan phổ thông Giáo Lý Đại Đạo - Tuất thời ngày 14 tháng 2 năm Ất Mão 26 - 3 - 1975 như sau " Người giác ngộ, hãy tự nguyện tìm việc Đạo mà hành trong lúc còn phương tiện, sức khỏe, ngày giờ có thể hành được. Đừng để khi nước đến chân, lửa cháy mày, dù muốn làm cũng không sao có phương tiện, sức khỏe và thì giờ " Và khi đã bước lên đò là chúng ta đã tu học theo tôn giáo hướng dẫn, nhưng để có thể rời bỏ con đò chiều, bước lên được bên kia bờ giác, chúng ta phải thực hành theo Pháp Môn Tam Công " Công trình - công quả - công phu, Tam công hội đủ đường tu dễ dàng " Chứ không phải là leo được lên đò thì cũng leo xuống đò được như việc làm ở cõi thế gian nầy. Và trong tam công thì công phu là thách thức khó khăn nhất mà ta phải đối mặt. Nguồn gốc khó khăn cơ bản trên con đường công phu thể hiện trên hai mặt :

1 - Thế gian thấy tất cả sự trên đời nầy đều cho là sự thật, lâu bền, hằng thường bất biến. Công phu hành thiền cho ta biết tất cả các hiện tượng trên thế gian đều giả, tạm bợ, có đó rồi mất đó hạn hữu vạn pháp đều do duyên sinh hay tương quan nhân quả và vạn duyên nhất thiết duy tâm tạo. Hay nói xa hơn cõi trần thế là bóng vang của tâm thức.

2 - Thế gian thấy hạnh phúc tạm bợ cho là an vui miên viễn. Công phu hành thiền nhìn hạnh phúc tạm bợ, trong thực tế lại có tiềm tàng khổ đau.

3 - Thế gian thấy sự phấn đấu của mình là khổ. Công phu hành thiền thấy sự chiến thắng chính mình là đầu mối của an lạc và giải thoát vĩnh viễn.

4 - Thế gian tôn vinh cá nhân. Công phu hành thiền phá bỏ chủ nghĩa cá nhân ( thuần chơn vô ngã )

5 - Thế gian bám víu vào các cực đoan. Đó là không xa hoa thái quá, không khổ hạnh thái quá, cũng không rơi vào phân biệt nhị nguyên. Thầy đã dạy : " Tu hành giữ mực thường thôi Đừng bày vẽ lắm mà bôi lem đầy ! ".

6 - Thế gian thấy bằng suy luận. Công phu hành thiền dạy ta thấy như thật.

7 - Thế gian suy nghĩ. Công phu hành thiền dạy ta không suy nghĩ để nhận ra bản chất của chính mình.

8 - Thế gian sử dụng trí năng biện luận. Công phu hành thiền dạy ta sử dụng tánh biết thường hằng lặng lẽ để nhận ra chân tánh hiện tượng.

9 - Thế gian dùng lý luận để khai triển năng lực trí lực. Công phu hành thiền dạy ta không lý luận để khai triển tiềm năng, giác ngộ Phật tánh để thấy rõ chơn như bổn thể của mình.

10 - Thế gian thích dùng cái biết, sử dụng nhận thức nhờ phương tiện có lời nói. Công phu hành thiền chỉ dạy ta cái biết sử dụng nhận thức không lời " Câu kinh vô tự độ người thiện duyên ". Ngoài ra ta phải giữ ba phép : Giới, Định, Huệ ( muốn diệt tham, sân, si cần phải giữ Giới, Định, Huệ ).

1 - Giới : răn chừa không tạo các nghiệp ác tức là tịnh thân, tịnh khẩu, tịnh ý. Tâm địa không quấy.
2 - Định : ngoài không nhiễm trần, trong không tán loạn, tức là trong ngoài đều vắng lặng, tâm địa không rố.
3 - Huệ : tâm địa trống không, trong sạch, niệm thấy tánh, tâm thể quang minh, soi thấu muôn pháp. Tâm địa không si, thiên địa chi tâm ( tức là tâm là tâm, mà cảnh là cảnh ) Định đưỡc ví như ngọn đèn còn Huệ là ánh sáng phát ra. Nói chung chủ đích " ngược dòng " của công phu hành thiền là công phu hành thiền nhằm cho ta biết thực tướng hay thực tánh của hiện tượng. Thế gian vốn vô thường, xung đột, không thực chất tính và duyên sinh hay tương quan nhân quả. Công phu hành thiền nhằm dạy ta cách đánh thức năng lực tính tự giác hơn là sử dụng năng lực trí năng, cách khai triển tiềm năng giác ngộ hơn là bám chặt từ chương, cách chuyển đổi nhận thức cũ thành nhận thức mới hơn là bám chặt nhận thức theo truyền thống nhân gian, theo những thành kiến, định kiến cá nhân chuyển tâm mê thành tâm giác. Muốn làm được điều nầy, chúng ta phải cố gắng thực hiện như lời dạy của Đức Đông Phương Chưởng Quản :

" Hằng bồi dưỡng tâm bình hạnh trực 
 Giữ đừng cho vọng thức lấn quyền 
 Sáu tình, bảy dục được yên 
 Tâm hồn tươi sáng là Tiên siêu phàm 
 Tâm mà được công tham tịnh định 
 Ấy là nguồn dưỡng tánh tồn tâm 
 Xác thân do đó khởi mầm 
 Sống lâu khỏe khỏi tầm linh đơn 
 Hằng ngày phải luyện thân luyện kỷ 
 Sự ăn ngủ nghỉ có chừng 
 Những điều đắc thất vọng hưng 
 Bại thành ngoại cảnh xin đừng động tâm " 
Chỉ có ta với sự sáng suốt, biết nương theo pháp môn để dụng công với hy vọng đạt được trí tuệ tâm linh, chuyển hóa nghiệp thức, nội chứng, giác ngộ và giải thoát tối hậu để bước lên khỏi cảnh đò chiều. Diệu dụng của công phu hành thiền là :
" Ngồi mà luyện linh châu mới biết
 Lòng được yên khí huyết được điều
 Hồn mình bay bổng cao siêu
 Kề tai nghe được Thiên Điều dạy khuyên
 Khuyên ta quay về miền thanh tịnh
 Dạy ta nhiều phép kín độ đời
 Công tu nhờ đó tỏ ngời
 Tâm ta nương đó đất trời huyền thông
 Lần lần thử đôi vòng thì biết
 Biết lần lần hư thực chẳng sai
 Biết ta trong pháp Cao Đài
 Không sanh không diệt không ngoài không trong
 Muốn cho giặc tình dục được yên được dứt
 Phải dụng công điều tức, điều thần
 Mình mà làm chủ được thân 
 Khác chi muôn tạ, hòn cân nhích bằng 
 Ngồi thanh tịnh lần phăng trở lại 
 Mới thấy mình làm sái bước ra 
 Công phu chẳng qua là vận âm dương".

( Thần khí : thần là dương, khí là âm, mà âm dương là Đạo nhất âm nhất dương chi vi Đạo ). Đó là ta biết vận dụng hơi thở để điều hòa thân tâm, nhớ đó thân tâm an lạc ít bịnh hoạn ốm đau, và Đức Đông Phương Chưởng Quản cũng dạy :
" Biết hô hấp còn hơn dùng thuốc 
Vận khí công là nước ma ha 
Nhơn thân ít bịnh lâu già 
 Xác thân tráng kiện thịt da hồng hào 
 Khí bồi dưỡng tế bào non trẻ 
 Khí châu lưu sức khỏe kiện cường 
 Khí thần vốn thiệt âm dương 
 Âm dương hiệp nhất là hườn chánh trung 
 Hạo nhiên khí khởi tùng nơi đó 
 Khí thái hư cũng là đây 
 Nhịp thâu khí ấy là bài trường sanh 
 Khi khí ấy trưởng thành chánh khí 
 Thì các loài tà mị tránh xa 
 Bây giờ ta mới thật ta 
 Cao Đài nội tại ta là chủ ông. " 
Và khi đã là Cao Đài nội tại ta là chủ ông là lúc ta có thể rời khỏi chuyến đò chiều để bước sang bến giác. Nhưng chúng ta không quên kêu gọi mọi người lo bước lên thuyền của Thầy Trời đang chực rước : "
Trời chiều đò chót ráng qua mau 
 Trễ chuyến nầy đây khổ biết bao 
 Bốn hướng mịt mù không nẻo tới 
 Năm nơi hắc ám khốn đường sau 
 Cọp beo gầm giởn trên rừng rậm 
 Trăn rắn đùa bơi dưới vực sau 
 Chỉ xuống thuyền ông là thoát chết 
 Kêu nhau mau xuống, xuống qua mau ".

Toa Thuốc Trường Sanh

Toa Thuốc Trường Sanh
*
Thầy sanh con mỗi con sẳn lộc
Cây sống nào không gốc đâu con
Khắp trong vạn vật sống còn
Do thầy sanh hóa bảo tồn thế thân
Từ vật chất tinh thần của trẻ
Do trời cha đất mẹ dưỡng sanh
Ấu thơ chí đến dưỡng thành
Hằng mong mạnh khỏe yên lành Thầy vui
Nhưng con sống với đời bệnh trước
Nên thân tâm chẳng được mạnh lành
Nay thầy đem thuốc trường sanh
Tiên Thiên Đại Đạo cứu lành bệnh căn
Bệnh không thuốc càng tăng thêm mãi
Dù nặng nhẹ cũng phải uống vào
Nhẹ thì thuyên giảm lành mau
Nặng thì trường phục trước sau cũng lành
Duy những con cải canh lời Thầy
Chê đắng hôi ắt phải nguy vong
Con ôi! Thầy rất đau lòng
Bệnh con chưa mạnh Thầy không yên ngồi
Thuốc Thầy chế đủ rồi trăm vị
Tự mình con xét kỷ bệnh con
Nhận cho biết chứng hàn ôn
Để mà ẩm được linh đơn của Thầy
Tánh nóng nảy thuốc hay bạch thủy
Bệnh ích kỷ dùng vị ái tha
Bệnh táo bạo dùng ôn hòa
Vị chân lý Đạo trị tà suy tâm
Trị tâm thần trị bệnh nghi nan
Tâm phàm bệnh trở bá ban
Thầy đây chế đủ trăm than thuốc thần
Đạo thực tế cần trao hiểu lý
Nói xuông mà chẳng ý thực hành
Khó toan công quả đắc thành
Trao thân tâm cho ngay, cho sạch
Ý vẹn gìn âm chất vung bồi
Mới là yên vững thành ngôi
Long Hoa được hưởng cảnh đời.
Thuấn Nghiêu Cữu nhị ức nguyên nhân đã xuống trần
Thiên đà mở Đạo ức nguyên nhân
Khai cơ tận độ kỳ ba đến
Hóa dục quần sanh thoát biển trần
Cữu phẩm Thần Tiên đã xuống trần
Thiên thương con dại lấy lòng nhân
Khai cơ chỉ rõ đời ngươn hạ
Hóa giáo chúng sanh giải nghiệt trần
Thập toàn vẹn mới thành
Tiên Nhị ức nguyên nhân gặp Đạo truyền
Đẳng đẳng chúng sanh đồng lập đức
Cấp cho địa vị mới thành Tiên
Thập điều trọn được cũng thành Tiên
Nhị kiếp tái sanh gặp Đạo truyền
Đẳng đẳng chúng sanh tu sữa tánh
Cấp này có đức mới thành Tiên
HÒA đời, hòa đạo, hòa nhân
Hòa câu kích bác giận hờn hòa luôn
Hòa trên hòa dưới in khuôn
Hòa trong tam giác ngọn nguồn Chí Tôn
Hòa hình, hòa dóc, hòa hồn
Hòa tồn vạn loại bảo tồn chúng sanh
Hòa câu bỏ dữ về lành
Hòa đồ binh khí, chiến tranh cũng hòa
Hòa gần rồi lại hòa xa
Hòa toàn vạn quốc đẹp mà can qua.

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

Kinh Tội Phúc Báo Ứng

Kinh Tội Phúc Báo Ứng

Trong kinh luân chuyển ngũ đạo
 Tội phúc báo ứng của Phật nói
Một hôm Phật với Tỳ Kheo
Ngàn hai trăm rưỡi vị theo hầu Ngài
Từ Ca Di sang chơi Xá Vệ
Đến giữa đường ngồi nghỉ gốc cây
Ly câu loại cao lớn thay
Quả ngon nặng trĩu cành này cành kia
Quả chín mọng rụng đầy mặt đất
Khắp nhân dân ra nhặt về ăn
Ăn vào tỉnh táo tinh thần
Trừ hết đói khát bệnh căn sạch lầu
Phật ngồi nghỉ Tỳ Kheo dạo gót
Nhặt quả ăn để lót dạ này
Phật liền bảo Át Nan đây
Ta xem muôn vật xa nay ở đời
Khắp trong khoảng trên trời dưới đất
Chẳng vật gì là vật không nhân
Át nan quỳ bạch ân cần
Xin Như Lai dạy mong ân đời đời
Phật liền bảo các ngươi yên lặng
Đem loài người ta hẵng nói cho
Nói qua đại khái căn do
Làm lành được phúc tựa hồ cây đây
Chỉ một hột bé tày hạt mít
Trước trồng nay quả kết không lường
Những người được huởng ngôi sang
Ai trông thấy cũng nể nang yêu vì.
Bởi trước kia chăm đi lễ bái
Phật Pháp Tăng sớm tối tôn sùng
Người giàu của cải vô cùng
Do trước bố thí lòng không ngại ngần
Người sống lâu trong thân khỏe mạnh
Trước giữ tròn giới hạnh trang nghiêm
Phá trai giết hại điều kiêng
Nên làm người được bách niên thọ trường
Người phẩm hạnh tính thường hòa nhã
Ai thấy là vồn và kính tôn
Đều do đời trước ôn tồn
Lòng người nhẫn nhục chẳng còn giận ai
Người chăm chỉ đêm ngày cố gắng
Phúa tuệ tu mà chẳng kiêu căng
Chẳng hề sợ hãi nói năng
Trước cầu đạo cả đã hằng tinh nghiêm
Người khí phách thích yên ít nói
Xét rõ ràng không vội vàng chi
Do tu thiền định trước kia
Lòng thường yên tĩnh nay thì an nhiên
Người sáng suốt vẹn tuyền mọi pháp
Nghĩa cao siêu hiểu khắp rõ ràng
Dạy cho khắp cả thế gian
Bao nhiêu mê hoặc phá tan sạch làu
Ai nghe nói quay đầu theo cả
Do trước tu bát nhã đúc thành
Kêu đèn trí tuệ quang minh
Giúp người sáng suốt nay sinh vẹn toàn
Những người được tiếng vang trong trẻo
Nói ai nghe cũng hiểu cũng vui
Do công tu đã bao đời
Gợi khen tam bảo khuyên người khác tu
Người sạch sẽ thơm tho xinh đẹp
Suốt đời không bi mệt nhọc chi
Ai trông thấy cũng yêu vì
Do bao công đức trước kia tu hành
Thấy ai khổ nghĩ tình thương xót
Đủ trăm phương cứu vớt cho qua
Nên hay tật ách lánh xa
Nhân nào quả ấy hiện ra đúng kỳ
Át Nan lại sụp quì xuống lạy
Xin mở lòng dạy cách từ bi
Phật rằng ta hãy tạm chia
Từ bi có bốn : người nghe cho rành
Một là yêu mến chúng sinh
Khác nào như thể mẹ lành yêu con
Hai nếu thấy chúng còn đau khổ
Ðem lòng thương ra nhổ gốc đi
Cho bao loài trước ngu si
Qua thành sầu não đều về cảnh vui
Ba nhân thứ, nên coi hết thảy
Thì dù sao lòng ấy vẫn vui
Bốn là nhớ giúp muôn loài
Hết thảy chẳng phạm của ai chút gì.
Phật lại bảo nên ghi đây nữa
Người thân cao là cớ vì đâu
Với ai trước cũng kính yêu
Nên nay mới được mọi điều xứng tâm
Còn những kẻ ngu thân thấp bé
Bởi trước kia khinh rẻ người ta
Những người xấu xí như ma
Bởi trước hay giận thực là không sai
Người khờ vụng, ngô ngây, ngốc nghếch
Bởi trước kia không thích học hành
Những người bị thịt bành bành
Quanh đời ngu xuẩn chẳng thành sự chi
Bởi trước kia nghe được lẽ phải
Không hề đem dạy lại cho ai
Những người câm ngọng xưa nay
Bởi xưa hóng hớt chê bai mọi người
Những người bị điếc lòi mù tịt
Bởi trước kia chẳng biết nghe kinh
Những người tôi tớ bị khinh
Bởi xưa vỗ nợ nay đành đền công
Những người bị long đong hèn hạ
Tam bào xưa mình đã thờ ơ
Những người đen xấu bây giờ
Che ánh sáng Phật tử xưa tại mình
Giống trần tục bị sinh vào đó
Vì đời xưa vứt bỏ cà sa
Coi chùa như thể tại gia
Nô đùa nhảm nhí nay đà cực thân
Người sinh loại giống trâu ngựa đó
Bởi lên chùa guốc nọ nhông nhông
Người sinh vào họ siêu hông
Vì trước bố thí trong lòng xót xa
Những loài nay thân là hươu thỏ
Bởi xưa nay sừng sộ dọa người
Người xưa đùa cợt suốt đời
Nay làm ong bướm cùng loài dâm ô
Những người nay mang bồ chốc lở
Chẳng thuốc nào cứu chữa cho qua
Bởi đời trước đã gây ra
Đánh chúng sinh chẳng hỏi là tại sao ?
Người ai thấy cũng yêu cũng nể
Bởi thấy người vui vẻ xưa kia
Người ai thấy cũng chán phè
Bởi trước mình thấy ai cũng chê
Những người bị giam nơi lao ngục
Gông kẹp cùm trói buộc ngày đêm
Bởi đời trước đã gây nên
Giam, giết, trói buộc hàng ngàn chúng sinh
Bao tự do mình dành giật hết
Chim trong lồng chúng biết kêu ai
Những người môi sứt hiện nay
Bởi trước câu cá báo ngay rành rành .
Như Lai lại đinh ninh dặn lại .
Rằng những người nghe thấy điều hay
Lòng hờ hững chẳng để tai
Lắc đầu lè lưỡi, người ngoài rối tâm
Gây nên sự trở ngăn người khác
Chẳng cho ai học Pháp nghe
Kinh Đời sau vào kiếp súc sinh
Làm chó điên dại cắn quanh suốt ngày
Ai nghe được lời hay pháp quý
Chẳng đem lòng suy nghĩ theo tu
Sau sinh làm kiếp ngựa lừa
Chùng tai nghe khuất bây giờ ngu si
Người tham sẻn có ăn gì cả
Chẳng cho người đói lả cùng ăn
Sau làm ma đói khó khăn
Được làm người lại cơ hàn cực thân
Miếng ăn chẳng sờ lần đâu được
Áo mắc thường rách mướp mùng tơi
 Những người sướng miệng suốt đời
Thức gì khó nhá cho người khác ăn
Sau làm lợn ngu đần ụt ịt
Hoặc nhặng ruồi ăn hết bẩn dơ
Những người tính thích vét vơ
Không ai cho cũng lấy bừa cuốn đi
Sau bị đọa làm dê khổ sở
Lột da tươi đền nợ trả kia
Những người hay sát sinh thì
Sau sinh làm những kiếp vi trùng thường
Thân vất vã nghĩ càng đau dạ
Vừa sinh ra lại đã chết rồi
Những người trộm cắp suốt đời
Chăm chăm rình chực của người cuỗm đi
Sau làm kiếp trâu kia ngựa nọ
Cùng con đòi đứa ở cực thân
Trả cho sạch hết nợ nần
Nếu còn vướng vít phong trần vẫn mang
Những người thích đam hoang sắc dục
Vợ con người làm đục giá trong
Ngục sau không tránh khỏi vòng
Bàn chông giường sắt cột đồng nướng thân
Một mình chịu muôn phần khốc liệt
Lúc sinh ra làm kiếp vịt gà
Những người hay nói điêu toa
Thấy ai có lỗi đem ra phơi bày
Sau chết phải đọa đầy trong ngục
Nước đồng sôi đem múc đổ nồm
Lưỡi căng ra đỏ lòm lòm
Dắt trâu cầy nát khổ còn gì hơn
Hết hạn đó ra làm chim sẻ
Cùng những loài xấu xí dâm ô
Hơi kêu tiếng nhỏ tiếng to
Ai ai cũng muốn rủa cho chết liền
Người bạn với ma men chè rượu
Băm sáu điều lỗi tạo nên kia
Sau sa vào ngục Nô Lê
Đêm ngày mình những đầm đìa bẩn nhơ.
Mình làm lấy đừng thuê người hộ
Mượn người ăn mình có no không
Vậy nên giữ vẹn thủy chung
Bao nhiêu công đức dốc lòng làm ngay
Chuyên một lòng ăn chay giữ giới
Hương hoa dâng sớm tối tu hành
Lạy quỳ trì chú tụng kinh
Đèn hương rực rỡ quang minh liền liền
Phật lại nói tiếp thêm bài kệ
Bặc hiền nay bố thí chúng sanh
Thiên Thần khen ngợi nức danh
Trước cho ra một nay thành gấp muôn
Ðược yên vui tuổi còn sống mãi
Nếu ai nay làm Ðạo thì thời
Phúc sau muôn kiếp khôn vời
Ngôi thành Phật đó tới nơi dễ dàng
Ðộ khắp cả thế gian giải thoát
Dễ còn ai hơn được nữa đâu
Nhân duyên gom góp lúc đầu
Giữ tròn năm giới mười điều thiên kia
Rũ sạch tham, sân, si làm trước
Cõi trần biết chång bền lâu
Vòng quanh năm ngã khác nào xe quay
Nên kíp phải ra tay thu xếp
Lánh cõi trần cách biết ngay đi
Ngày đêm khuya sớm tu trì
Tụng kinh giữ giới làm bè vượt qua
Trời đất hoại nữa là thân giả
Có chi mà tranh ngã tranh nhân
Như Lai lại bảo Át Nan
Người đời mắt thịt còn bàn nói chi
Ðối tội phúc không hề biết lý
Nay ta đem mắt trí tụê xem
Vô lượng kiếp đến đường kim
Rõ ràng tội phúc như in rành rành
Sự báo ứng phân minh sau trước
Tựa minh châu trong suốt cầm tay
Rõ ràng chẳng thiếu mảy may
Như gương soi vật bóng đày cả trong
Át Nan lại thong dong quỳ lạy
Bạch Phật Kinh này lấy tên chi
Phật ràng nếu đặt tên thì
Tội Phúc Báo Ứng Quanh Ði Năm Ðường
Nếu ai tuyên dương phúng tung
Công đức này thực đúng vô biên
Ðược hầu nghìn Phật Kiếp Hiền
Cúng đàng phụng sư ngày dêm chuyên cần
Giới, Ðịnh, Tụê, muôn phần trọn vẹn
Chốn tam đồ bát nan đều không
Kinh này khi Phật nói xong
Tất cả đại chúng đều cùng mừng vui
Lòng ai nấy chẳng lùi chẳng chuyển
Ðạo Bồ Ðề chứng hiện tại ngay
Mừng nào lại qua mừng này
Làm lễ nhiễu Phật xong quay ra về.
Hết hạn đó sinh ra loài vật
Giống mặt người coi rất sợ kinh
Khi làm người lại hóa thành
Ngu si đần độn người khinh tựa bèo
Vợ chồng cũng chẳng yêu chẳng kính
Trong nhà thường đánh đấm lẫn nhau
Sinh ra ly dị thảm sầu
Sau làm chim ngói vùi đầu dâm ô
Kẻ tham sức người cho mình đỡ
Sau sinh làm voi ngựa đền công
Như Lai lại dặn thủy chung
Làm quan bóc lột ăn không của người
Dân vô tội đem roi đánh đập
Trói đem đi giam chấp khảo tra
Hơi điều gì ý chẳng vừa
Gông cùm treo kẹp lòng đà nhơn nhơn
Người bị khổ kêu van hết chỗ
Sau chết vào ngục khổ khôn cùng
Chịu muôn ức kiếp khi xong
Ra làm trâu kéo mùi thông dây giòng
Kéo xe gỗ long đong vất vả
Roi gậy thường đền trả nợ xưa
Như lai lại bão hiện giờ
Bao người làm phúc chớ còn ngại chi.

Lời Thầy Khuyên Tu

Lời Thầy Khuyên Tu

Nầy đồ đệ lắng nghe Thầy dạy
Việc tu hành cố gắng hỡi này con
Con muốn tu cho Đạo quả vuông tròn
Phải vung giữ theo lời Thầy dạy bảo
Nầy con hỡi cuộc đời đầy huyên náo
Khổ dương trần không thể kể cho cùng
Phật nói rằng suối giọt lệ dồn chung
Từ vô thỉ đến nay hơn nước biển
Lòng bác ái nên Thầy đây nhủ khuyên
Khuê đèn từ đuốc huệ dắt dìu con
Nầy con ơi vạn vật chẳng thường còn
Mê chi mãi chốn cuộc đời tươi thắm
Con chẳng rõ nên con còn say đắm
Tưởng đâu rằng tuổi thọ vẫn tồn sinh
Tưởng đâu rằng hạnh phúc mãi cho mình
Không, không phải nầy con ơi nên rõ
Ngôi Thái Tử Sĩ Đạt Ta còn bỏ
Vào rừng non tuyết lãnh để tu hành
Thấy cuộc đời toàn sanh tử bao quanh
Đau khổ mãi có chi đâu hạnh phúc
Con chẳng rõ nên con còn chen chúc
Giành ngôi cao lộc cả với giàu sang
Nghiệp con vay con tạo đã muôn ngàn
Thầy thương xót nên Thầy tìm phương cứu
Như chưa tỉnh con mau thưa hỏi
Thầy dắt đường dẫn lối để con theo
Biết tu rồi chẳng luận đến giàu nghèo
Hay già trẻ nữ, nam chi tất cả
Nầy con hỡi cõi đời là tạo giả
Chẳng khác gì như tuyết gá cành cây
Chẳng khắc gì như biển chóp mây bay
Hay cuộc thế ngọn đèn treo trước gió
Nầy con hỡi lợi sắc, tài dang đâu có
Tầng Thủy Hoàng hay Kiệt Trụ còn chi
Sở Bá Vương và Hạng Võ ra gì
Nay chết mất tiếng nhơ nêu thanh sử
Lòng tham ác chứa đầy kho tích trữ
Hỏi sống còn hưởng thọ mãi hoài chăng
Kìa Thạch Sùng Vương Khải mấy ai bằng
Giàu tột bực thời xưa rồi cũng chết
Nầy con hỡi con chớ nên mê mết
Chim sa ăn sa vào lưới tàn hình
Cá mến mồi vướng câu phải bỏ mạng
Người tham lợi sắc tài danh phải chết
Con nên phủi bụi trần tâm cho hết
Hươi gươm lên chém lũ giặc trong lòng
Có đại hùng mới chiếm đắc kỳ công
Dù gian khổ con gắng bền tâm nhé
Thầy thương xót nên Thầy trao gánh nhẹ
Phải bền lòng gắng sức gánh con ôi
Bước đường tu là nghiệp quả phải nhồi
Thầy nếm đủ mùi đời chua đắng chát
Có lắm lúc chính Thầy đây muốn thác
Thấy đời sao bãc bẽo lắm hơn vôi
Thầy đem ơn đáp nghĩa để đền bồi
Gặp người lại trả hờn đáp oán
Thầy cương quyết không hề chán nản
Đến ngày nay mới dìu dắt các con
. Nầy con ơi đạo quả muốn vuông tròn
Gương Thầy đó con nghe theo con nhé
Đây nhắc lại lúc Thầy còn tuổi trẻ
Ham vui chơi bỏ học chốn nhà trường
Hiền Mẫu Thầy rầy dạy bởi xót thương
Thầy buồn lắm bởi giáo đã thành oán
Nhưng sau đó Thầy có công học ráng
Được thành tài Hiền Mẫu có nhờ chăng
Vậy hôm nay đồ đệ cố siêng năng
Đừng trách móc chớ buồn Thầy chi nhé
Nay ngộ Đạo Thầy nhớ khi tuổi trẻ
Thầy ăn năn hối hận thật vô cùng
Làm phiền lòng Hiền Mẫu khổ lao lung
Nay học giỏi văn hay nhờ ai đó
Nầy đồ đệ trách phiền Thầy sao khó
Khó mới nên phải cố gắng con ôi
Nếu Thầy dễ vui con cứ bỏ trôi
Ngày tháng lụn năm tàn đã mau chóng
Còn tuổi trẻ không học tu cho chóng
Đến tuổi già tu học kịp sao
Quỷ vô thường không có định hạng nào
Khi đến số nó liền sang tiếp dắt
Thầy quả quyết nên Thầy sang định chắt
Đời chia phân đời mới có đấu tranh
Đời chia ly mới giựt lấn chen dành
Thầy thương quá mà Thầy vô phương cứu
Con hữu phước đa duyên quay đầu tựa
Dựa nên Thầy được chỉ dạy khuyên răn
Con cố gắng giữ tâm giới được thẳng bằng
Thương vạn vật chúng sanh trong vũ trụ
Lòng bác ái dưỡng tâm cho đầy đủ
Đức từ bi con phải tập cho thuần
Tánh đại đồng con phải điều luyện cho nhuần
Đèn trí huệ con phải trêu cho sáng
Nầy con hỡi cuộc đời nên chán ngán
Mê mết chi chẳng chịu nghe lời
Ngàn sao con thương tiếc mãi làm gì
Nước tới ngực con nhảy sao cho khỏi
Danh với lợi là xích xiềng cột trói
Bao anh hùng đầm lụy tài hoa
Giây ái tình tiêu tan hết cửa nhà
Sắc xinh đẹp làm hư thân hoại thể
Gương thuở trước lắm điều tàn ác
Trụ say mê Đắc Kỷ phải thêu mình
Lử Bố vì háo sắc nở đoạn tình
Ôi gương trước thiếu chi người hung dữ
Con nên cần gắng giữ được châu toàn
Thân nhẫn hòa thì còn đặng bình an
Hòa anh chị là trọn tình cốt nhục
Gia hòa hiệp là nhà thường phú túc
Quốc hòa đồng là nước thạnh dân an
Thế giới hòa là thế giới thanh nhàn
Từ cả thế đến đồng bào xã hội
Ngũ tạng hòa thì thân đặng vạn an
Diên hồng kết mới kết thành xá lợi
Thủy hòa hiệp Niết Bàn kia mới tới
Nhẫn hòa đây là Đạo đó con ơi
Nếu không hòa thì Đạo quả sao rồi
Nên con phải hòa tâm và hiệp tánh
Đạo viên thành dung hiệp tại tâm con.

Lời Phật Mẫu Dạy

Làm con phải biết tổ tiên
Kính anh mến chị mới là phận em
Kinh sách để lại không xem
Ráng nhìn cho kỷ mà đem vô
lòng Cơ trời sắp định ê chề Mà đời
không có nghe lời sám kinh
Thánh ngôn Thánh Giáo dạy rằng
Ráng lo tu học về hàng
Thánh Tiên Ngày nay Thầy dạy tu hiền
Về nơi ngôi vị căn Tiên Mẹ vành
Các con đọa thế xuống trần
Kỳ ba mẹ rước mười phần không sai
Tu hành ăn thiệt nói ngay
Những lời Thầy dạy không sai đâu mà
Chuyển luân luân chuyển vậy mà
Người tu trung hiếu xử xong
Tam can giữ vẹn thiên đàng khó chi
Đạo dạy hai chữ từ bi
Tâm Thánh Chánh Thiện Thầy ghi con rồi
Tu hành bóp méo ra tròn
Mà tâm con chánh đường mòn con đi
Đi về tới cửa từ bi
Là nơi con ngự ngày xưa đó mà
Gìn lòng ngay thẳng thật thà
Trung can nghĩa khí như ngày quan công
Ngày giờ Thầy dạy sắc son
Luyện tâm luyện tánh xát con thanh nhàn
Con đừng lo sợ mơ màng
Tâm con Thầy ngự đặng làm cho ra
Thầy dạy tâm tánh thẳng ngay
Đặng về ngôi vị không sai đâu mà
Nói năng thì phải thật thà
Ăn thiệt nói thiệt đó là Phật Tiên
Lập đời Thánh đức phải chừa
Ngôn ngữ xỏa trá nhớ chừa nghe con
Muốn về ngôi vị vàng son
Đừng tham của thế xác con đọa trần
Tu thì tập tánh lần lần
Tập theo Tiên Thánh sửa lần nghe con
Thời kỳ ân xá các con
Hễ tu thì dắt hể hành thì thăng
Tu hành thì phải ăn năn
Hiệp theo Tiên Thánh mãn căn trở về
Tay con cầm chuổi bồ đề
Tụng kinh niệm Phật hồn về Tây Phương
Tu hành thì phải lập trường
Hãy làm công quả cúng vường mới nên
Tu hành nhờ có bề trên
Dắt dìu độ vẫn đem lên thiên đàng
Nữ nam Thầy sắp hai hàng
Tụng kinh niệm Phật Thiên Hoàng chứng cho
Con tu lâu quá Thầy ơi
Mà sao bị khảo tơi bời thế ni
Đừng than đừng khóc, đó là trường thi
Thi cho kịp lúc kịp giờ
Kịp cơ đại hội kịp giờ chấm thi
Kỳ ba Thầy khảo vậy thì
Con nào có chí thì thầy độ cho
Tu hành thắc mắc gai go
Ráng hành cho đặng giàu to bớ trò
Quyết tâm lặng hụp lần mò
Ơn trên chuyển thế các trò về ngôi
Các con đều có ghế ngồi
Đừng ham danh lợi mà rời ngôi Tiên
Ngôi Tiên con có tự nhiên
Sau không giữ tánh căn Tiên của mình
Đừng tham tiền bạc thế gian
Đó là của tạm đâu mang đặng nào
Chỉ mang sắt đạo mà thôi
Đem về với Mẹ là ngôi của mình
Tu thời phải biết tánh linh
Biết ngôi biết vị về trình Mẹ Cha
Sang giàu như Phật Thích Ca
Trốn cha lén mẹ mà ra non tần
Ngôi vua thái tử không cần
Giàu sang phú quý không màng
Tiềm đường đạo hạnh dắt đoàn nhơn sanh
Bụi trần nợ thế hôi tanh
Các con giành giựt, giựt giành làm chi
Vô chùa niệm Phật từ bi
Ngày sau bỏ xác trở về ngôi xưa
Tập tành sửa tánh muối dưa
Tiềm cho chánh pháp Mẹ đưa con về
Tu thời khổ cực mà còn
Con mà hành đặng là con của Thầy
Khổ tâm khổ trí căn nầy
Ngày sau đắc đạo về Thầy bớ con
Thương trò Thầy dạy sắc son
Giữ tròn hiếu đạo thì con trở về
Con về đến cội bồ đề
Là nơi Thầy ngự thật là không sai
Các con cố gắng ăn chay
Ngày sau bỏ xác con bay về
Thầy Thầy thương Thầy dạy
Thầy rầy Bỏ qua cơ hội biết chờ khóa nao
Cơ nầy Đại hội cao đài Tây Ninh
Thầy lập để sau cứu đời
Sông kia núi nọ còn vời
Bệnh đau đủ chứng mà đời không lo
Anh em không thuận không hòa
Làm cho tan nát cửa nhà tan hoang
Thời kỳ loạn pháp vậy thì
Trai thời du đản gái thời loan dâm
Làm cho cha mẹ khổ tăm
Răn dạy không đặng ăn nằm sao yên.
Nguồn : sưu tầm

Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo

Nay Mẹ gởi lời khuyên chung tất
Bớt lần đi vật chất thế trần
Rán gìn từ lúc xuân phân
Các con phải chịu não nùng đáng thương
Con nghe Mẹ liệu lường kẻo khổ
Biết bao lần sụp đổ con ôi !
Hôm nay Mẹ hé cơ Trời
Các con hãy liệu gìn thời thân sang
Muôn vạn chữ tu hành là gốc
Nếu các con chí dốc theo Thầy
Dù cho cát chạy đá bay
Có chư Thần Thánh hộ rày trẻ thơ
Con nên biết ngày giờ đã hết
Đừng tưởng rằng hễ chết là xong
Khi ra Tam Giáo Công Đồng
Con còn phải chịu ngồi trong ngục hình
Thế là điểm chơn linh con mất
Cái ngôi vị Thánh Phật Thần Tiên
Nhào lăn xuống cõi huỳnh tuyền
Con chờ đến bảy ức niên sau nầy
Đến chừng đó Đạo Thầy mới mở
Phách hồn con ví tợ bãi bùn
Hết đường trở lại Thiên Cung
Để cho Mẹ phải đau lòng xiết bao
Vậy con phải ngăn rào ngay trước
Một chữ Thành cũng được hồi nguyên
Kỳ cùng hưởng chút ân Thiên
Mong rằng các trẻ Kiêm Biên rán gìn.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Thầy là cha của sự thương yêu, do bởi sự thương yêu mới tạo thành thế giới, và sanh ra các con, sự thương yêu là giếng mối bảo sanh của càn khôn thế giới, có thương yêu vạn loại mới hòa bình, không thù nghịch lẫn nhau. Vì ghét nhau mà vạn loại mới tàn hại lẫn nhau. Bởi vậy Thầy cấm các con không đủ sức thương nhau thì cũng đừng nên ghét nhau. Khuyến Thiện Ngày ngày lòng mẹ buâng khuâng Cũng vì con trẻ níu thân ràng buộc Nở nào day mặt sắp lưng Liêu chiêu con đỏ Mẹ mừng thiết tha Trời cha oan nộ sấm vang Nếu không có Mẹ ắt tàn chúng con Cho nên Mẹ trách phiền con Công Mẹ sanh dưỡng chẩng còn tiếng chi Con ngan bạc ngãi vô nghì Nhờ ơn tạo hóa nhớ vì công sanh Nếu như Mẹ giận bỏ đành Thì con đâu được nên danh cuộc đời Ngày ngày con vẫn vui chơi Chớ hề con cúng tứ thời một giây Muốn cho kiểng vật tạo xây Muốn dạy con trẻ phải bày dổ khuyên Đôi lời mẹ nhắc con hiền Hằng ngày kêu Mẹ, Mẹ liền cứu con Con ôi ghi tấc lòng son Con nghe lời Mẹ sẵn còn đường đi Đôi lời Mẹ nhắc con ghi Ngày sau đại hội con thì gặp cha Hết lời Kim Mẫu thiết tha Dương gian con ở Mẹ già kiếu thăng. Đức Lý giáng cơ dạy Đạo Gà lẻ mẹ gà kêu chiu chít Mẹ túc con con xúm xít hiệp vầy Ẩn mình dưới cánh mẹ đây Che thân qua khỏi ó bầy xớt đâm Kìa rừng rậm hố hầm đầy dẫy Con ham ăn chạy bậy hụt chơn Chó, chồn, sư tử chực hờm Nếu con hờ hững, xác hồn phải tiêu Mẹ túc con, tiếng kêu ríu rít Hiệp chung đồng khắn khít tình thương Ham mồi con phải lạc đường Kề gần bên Mẹ, lo lường bình an Lảo Giáo Tông lời tràn ẩn ý Chư hiền toan, nghiệm kỷ tiên tri Xét xem cho rỏ thời kỳ Niên nầy sắp tới những gì xẩy ra Hữu phước gặp Đạo nhà khai mở Sẵn duyên lành, mới nhớ đường tu Rán lo công quả công phu Công trình đầy đủ muôn thu hưởng nhàn.
Nguồn : sưu tầm

Chủ Nhật, 28 tháng 5, 2017

Tâm Niệm Giải Thoát

Tâm Niệm Giải Thoát
Cõi đời hiện nay sắp tàn trong giây lát. Tạo hóa đã đặt lên một bàn sàng để gạn lược người chơn tu tích đức. Thì người chơn tu tích đức mới mong sống còn lại đến đời thượng ngươn Thánh đức. Vậy mà nhiều người hôm nay chưa được tin Trời tưởng Phật, hay là người tin Trời tưởng Phật rồi, mà quên câu nhân quả báo ứng rất công minh, rồi cứ vẫn sát sanh hại vật, mà dựa theo lý vật dưỡng nhơn, chớ đâu có biết rằng Thiên Địa vạn vật đồng nhứt thể. Người với vật cùng sanh. Tiên Thánh với người cùng hóa, người ở trong vạn vật. Thú cầm tiến hóa lên làm người. Mà hôm nay sao mình dựa theo lý vật phải dưỡng nhơn. Có phải chăng mình mượn câu vật dưỡng nhơn đặng an ủi cho sự mình để sát hại. Lầm thay, khổ lắm thay rồi từ đây phải chịu trả bằng một cách xứng đáng theo sự mình làm, vì vay một mạng thì phải trả một mạng. Theo phép công của tạo hóa. Tùy theo nặng nhẹ chớ làm sao mà tránh khỏi, hễ mình biết làm việc có phước thì Trời ban phước, mình sát sanh hại vật, thì Trời cũng giáng họa chớ có gì đâu. Nhiều người biện lý rằng : Ăn chay bất tiện vì gia đình, vì làm việc, thì mình muốn trở lại lòng nhơn sống đến đời Thánh đức, muốn quả cao cần phải có công dày, tại mình biện lý lẻ, chớ nghĩ ra mua tương rau, mua cá thịt cũng mắc công mua, cố công bắt cá, cố công trồng rau cải cũng tốn công. Cái nào cũng tốn, chớ đâu có sẵn cho mình cái gì, mà cho rằng tiện, cho rằng không tiện. Thử hỏi mình không ăn chay, không tu hành trở lại, rồi cái quả của mình còn đó, đến chừng cuộc tẩy lựa người hiền đức gần đây, thì mình phải chịu trả quả bằng một cách thảm thiết, nào là bệnh tật đau đớn, chết chóc về Ma Vương và bệnh thời lý vô phương cứu chữa hoặc đủ cách đặng đề lại tội. Nói cho bá tánh đắp xây Tạo nên công đức toàn thây an nhàn Tu thì lòng nọ bàng hoàng Còn lo thế sự nhộn nhàng đắc công Tu thì niệm Phật không cần Trường chay mấy lúc ngã lần thịt ngon Tu thì như vậy sao tròn Rồi đây phải chết không còn mà ăn Tu thì nhộn nhịp lắm chăng Đến chừng rớt ngã nặng quẳn đắm say Tu vầy giả dối lắm thay Thấy đời lúc khổ ăn chay niệm hoài Tới chừng dịu lại lần phai Người tu ngư thế chết ngay không còn Tu thì lòng dạ sắc son Dầu cho có khảo một lòng gắng ghi Được vậy đâu có chi bì Rồi đây Trời Phật gắng ghi bảng vàng Thôi thì đừng nghĩ hoang mang Trở lại cho kịp một đàng Phật Tiên Đời nầy ai có hữu duyên Phật, Trời rước xuống chiếc thuyền thảnh thơi Không thôi phải chịu chơi vơi Biển trần lặng hụp tơi bời xuống lên Rồi đây gió đạn mưa tên Chúng sanh thảm họa lênh đênh bềnh bồng Kẻ thời mất vợ mất chồng Người thời còn lại theo giòng nước trôi Nói ra thảm thiết ai ôi Lâu đài sụp đổ tới hồi thành tro Nói cho bá tánh đặng lo Rán tu cho kịp chuyền đò tam ngươn Tu thì dẹp giận bỏ hờn Thi ân bố đức đừng sờn lòng ni Ở đời ghét hại làm chi Đến chừng chừng chịu khổ vậy thì thảm thương Tứ hải huynh đệ tình thương Phân da màu sắc vướng ương tai nàn Thôi thôi cuộc thế đừng màng Chấm dứt danh lợi đặng hàn vế thương Cho đời hết thấy nhiễu nhương Đem lại khắn khích lòng nương hòa tình Sống vui an lạc thái bình Là tình cốt nhục đẹp xinh Phật Trời Xin ai tu niệm đừng lơi Trường chay tuyệt dục vậy thời sống an Đến khi chuyển địa hoàng Đất kia phải sụp tan hoang địa cầu Nay thì cũng chẳmg còn lâu Rán lo tu niệm đặng chầu Long Hoa Chừng đó có chúa có cha Mới là tất cả nhà nhà an vui Thôi thôi bần đạo kính lui Chúc cho tất cả lau chùi tâm thanh .
Nguồn : sưu tầm

Thứ Sáu, 26 tháng 5, 2017

Thi Văn Của Đức Phật Mẫu

Thi văn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho.
Diêu Trì Kim Mẫu Diêu điện ký lời gởi các con
Trì tâm kiếm hiểu lẽ châu
Kim thơ học lấy cho thông thuộc
Mẫu huấn ghi lòng khỏi héo von
Lệ hòa mực, Mẹ đề thơ gởi
Cho các con trần giới đôi câu
Con ôi ! Mẹ luống đau sầu
Vì tình mẫu tử bấy lâu phai mờ
Thương vì trẻ ngây thơ khờ dại
Đắm mê trần nên phải xa ngôi
Mẹ đây trông đứng trông ngồi
Các con thì lại ham nơi biển trần
Mẹ xót dạ bao lần giáng thế
Đã nhiều lần thỏ thẻ cùng con
Thấy đời lắm cảnh héo von
Thương cho con trẻ nắng đòn phải mang
Nhìn con trước cuộc tang thương
Thế mà con mãi chủ trương lợi tài
Mẹ truyền lập Hoa Đài Long Hội
Khuyên chúng sanh hãy vội tu hành
Đời tàn khó tránh đao binh
Dầu thương Mẹ cũng khôn tranh luật Trời
Ngày tận diệt cuộc đời cận lắm
Mà các con bước chậm quá rồi
Cũng vì danh lợi trì lôi
Mẹ đây vì trẻ đứng ngồi không yên
Mong Nam Nữ lửa phiền tưới tắt
Hầu tránh cơn gió bắc thổi lùa
Chữ tu vàng cũng khó mua
Thân sanh con chỉ ở chùa mới an
Đừng lầm tưởng bạc vàng là quí
Mẹ khuyên con hãy nghĩ cho cùng
Rồi đây trước cảnh hãi hùng
Con đâu có được thung dung thế nầy
Bởi Mẹ thấy gần đây sẽ khổ
Khổ các con Mẹ đổ giòng châu
Hãy mau thức tỉnh hồi đầu
Mới là được Mẹ hộ phù vững an Ôi !
Trước cảnh tương tàn tương sát
Tấm thân con dào dạt nổi trôi
Mẹ dầu ân huệ liên hồi
Cũng không cứu vãn cuộc đời chinh nghiêng.

Thánh Giáo Phật Mẫu
Cuộc biến chuyển vẫn còn biến chuyển
Tuồng tang thương diễn tiến không ngừng
Xưa nay nữ liệt tài nhân
Vì danh với lợi và thân buộc ràng
Đã trót sanh trần gian cõi tạm
Mang hình hài trong đám nữ nhi
Đời con phải có những gì
Hiến dâng Đức Mẹ một khi trở về
Cho khỏi thẹn lời thề năm ấy
Khi chào đời mang lấy vào thân
Đến khi con xuống hồng trần
Mêng mang nhục thể nội phần khó khăn
Cực hơn đám nam nhân mọi mặt
Về tề gia xắp đặt ngoài trong
Con thơ một đám ròng ròng
Cửa nhà đủ thiếu từ trong đến ngoài
Con ngày tháng trở xoay mọi mặt
Con phận hèn đầu tắt mặt đèn
Nông phu tay lắm chân phèn
Quanh năm suốt tháng đua chen với đời
Có ai đở khuyên lời đạo đức
Rằng tôi còn nghèo cực long đong
Chừng nào gia đạo vẹn xong
Các con nên vợ nên chồng sẽ hay
Đến chừng ấy bắt tay hành Đạo
Để mà lo thiên bảo kỳ thân
Giờ này lại vướng nợ nần
Tiền vay bạc hỏi khó khăn đến chùa
Đứa khá giả có chừa vật chất
Nghe lời khuyên đạo đức thì rằng
Bị nhiều công xưởng tứ giăng
Nào thầy nào thợ công ăn việc làm
Nếu đi lo việc chùa chiền
Việc nhà bê trể xóm giềng chê bai
Nào tại bị tại vầy tại nọ
Tại vì đây bị đó lăng xăng
Bao nhiêu hãng xưởng tứ giăng
Bao nhiêu sự nghiệp chưa an cuộc đời
Tội nghiệp con đây lời Mẹ dặn
Kìa vô thường đâu lại hẹn ai
Đầu hôm hoặc buổi sớm mai
Tháng này ngày khác có ai biết tường
Khi tử thần vô thường muốn dắt
Hẹn được chăng tôi mắc việc này
Hỡi các con lo âu vun vén
Ráng lo đừng hẹn ngày mai
Đạo đời cùng gánh hai vai
Dầu cho có thác ngày mai đi về
Có vốn liếng dựa về bên cạnh
Do lòng con tu chánh tu chơn
Lòng đừng tính thiệt so hơn
Giàu nghèo đủ thiếu dễ lờn nghe con.

Diêu Trì Kim Mẫu
Mặt trời lố mọc nhành dương
Mưa sa lác đác mùi hương nực nồng
Thấy con trần thế có lòng
Thành tâm cầu khẩn Mẹ hồng vãng lai
Dạy con để dạ nhớ hoài
Mai sau về chốn Thiên Đài chung vui
Hễ con biết Đạo biết mùi
Biết trau sửa tánh biết giồi nết na
Biết con là phận đàn bà
Biết lời ăn nói thiệt thà hiền lương
Biết dùng dưa muối rau tương
Biết lo tụng niệm, biết đường tu thân
Chớ nên quyến luyến hồng trần
Chớ nên tham phú phụ bần rẽ hai
Chớ cho tình nhạt duyên phai
Chớ vong nghĩa cũ, chớ hai tấm lòng .
Nguồn : sưu tầm

Mười Điều Khuyên Của Đức Hộ Pháp

Mười Điều Khuyên Của Đức Hộ Pháp
Điều thứ nhất : Tuân y luật pháp Đúng chơn truyền của Đức Chí Tôn Mặc ai bày vẽ thiệt hơn Đạo tâm nhất dạ chẳng sờn lòng son
Điều thứ hai : Tông đường trọn hiếu Phụ mẫu ân trọn đạo làm con Vợ chồng trọn nghĩa keo sơn Phận làm cha mẹ vẹn tình cùng con
Điều thứ ba : Giữ tròn trai giới Dùng tương, rau, dưa muối hằng ngày Nhẹ nhàng thân xác chẳng hoài công ta
Điều thứ tư : Tránh xa đảng phái Không nao lòng đường phải cứ đi Không nghe xúi giục lôi trì Đức tin mạnh mẽ Tam Kỳ độ sanh
Điều thứ năm : Thực hành phước thiện Giúp đỡ người đau yếu, thế cô Giúp người tàn tật già nua Nuôi dưỡng trẻ nhỏ cút côi não nùng
Điều thứ sáu : Dặn lòng hằng bữa Chẳng đặng thâu tiền của chúng sanh Thanh liêm trong sạch chân thành Ngôn, công, đức, hạnh tập tành cho siêu
Điều thứ bảy : Thương yêu đồng loại Như anh em thân ái ruốt rà Như cùng một mẹ một cha Đỡ nâng dìu dắt thuận hòa dưới trên
Điều thứ tám : Chẳng nên phản bạn Lòng trung kiên chẳng đặng bội tư Công bình bác ái nhân từ Trung thầy nghĩa bạn tâm tư sáng lòa
Điều thứ chín : Hiền hòa, chân thật Đừng vong công bội đức lộng quyền Ở như các đấng Thánh Hiền Thực hành chữ nhẫn lưu truyền noi gương
Điều thứ mười : Yêu thương mạng sống Trong mạng người, trọng mạng thú cầm Kính trọng sinh mạng nguyên căn Vừa theo thánh chất đạo hằng Chí Tôn.

Đức Chí Tôn Khuyên Dạy

Buộc trường trai, giới sát không sai Phải đi đúng cửa Cao Đài Trường thi công quả nơi Thầy mở ra Tuân luật pháp kỳ ba Đại Đạo Đúng Chơn Truyền, chánh Giáo Chí Tôn
Đường tu chìm nổi nhiều cơn
Kiên tâm con bước theo chơn của Thầy
Hiếu tông tổ, hàng ngày kinh phục
Phụ mẫu ân, dưỡn dục đáp đền
Vợ chồng trọn nghĩa đừng quên
Làm cha, làm mẹ dạy con nên hiền
Đồng môn đừng chia riêng phe phái
Hiệp đại đồng, chủng loại đệ huynh
Tương rau, dưa muối nuôi mình
Xác thân tinh khiết, tính tình thảo ngay
Con nhín ăn, nhín xài, nhín mặc
Cứu giúp người nghèo ngặt khổ nguy
Cơ hàn, già yếu, cô nhi
Giúp người tàn tật qua khi khổ nàn
Người no dạ, con càng vui vẻ
Người mặc lành, lòng trẻ hân hoan
Đừng mê luyến cõi trần hoàn
Xuôi tay nhắm mắt, con mang được gì
Con khá biết trần ai cõi tạm
Vật chất này như đám phù vân
Kiệm cần ngày tháng nuôi thân
Vạn sanh linh chưa khỏi luân hồi
Độ kẻ tội lỗi, con ơi !
Là công lớn nhứt làm vui lòng
Thầy Buộc mỗi trẻ độ đời ít nhất
Mười hai người mới thật nên công
Nếu đời không phạm lỗi lầm
Thì đâu phải nhọc đến công của Thầy
Lòng bác ái, hạnh Thầy yêu dấu
Đức công bằng nhân hậu hôm mơi
Yêu thương mạng sống muôn loài
Quí trọng sinh mạng, vâng lời Chí Tôn
Con còn đủ cả hồn lẫn xác
Hội Long Hoa cố đạt bảng vàng
Dù con chưa thấy rõ ràng
Diệu huyền Thầy đến phân tàn hôm nay
Cũng nên tin lời Thầy chân thật
Đừng chờ khi nhắm mắt lìa đời
Hồn lìa khỏi xác chơi vơi
Thấy cơ Mẫu Nhiệm, con ơi muộn rồi
Con khá tuân lời Thầy khuyên dạy
Phép huyền vi, chẳng cải được đâu
Đứa mê độc ác hiểm sâu
Thiên điều trừng phạt, Thầy đau đớn lòng
Con khá gắn bồi công lập đức
Giúp chúng sanh khổ cực chớ nài
Thương yêu là lễ dâng Thầy
Công viên quả mãn, mang về thiện tâm .

Khuyến Tu Đạo Thầy chẳng do nơi lời nói Kết quả do bởi thực hành Thánh ngôn, giáo lý, kệ kinh Giáo truyền kết quả, nhân sinh quy tùng
Hễ một thầy đồng chung thọ giáo
Là anh em một đạo một cha
Như anh em ruột một nhà
Thương yêu, giúp đỡ, thân hòa thủy chung
Đại Từ Phụ, cha chung duy nhất
Ban cho con thiết giáp vô hình
Bảo toàn thân xác tánh linh
Ấy nền đạo đức, giữ gìn nguyên nhân
Nếu bỏ giáp ra thân trần lổ
Bỏ đạo thì đến chổ tà thần
Giử gìn thiết giáp ân cần
Là giữ đạo đức tu thân hằng ngày
Phổ là đem phô bày nền
Đạo Độ là lo khuyên bảo chúng sanh
Hiếu, trung lễ nghĩa, tin, thành
Ái nhân, ái vật, thực hành từ bi
Nay Thầy mở Tam Kỳ Phổ Độ
Lần cuối cùng cứu khổ sanh linh
Chính mình Thầy cứu chúng sanh
Hãy mau thức tỉnh xét mình tu thân
Dùng cơ bút, Thầy nâng dạy Đạo
Không giáng sinh không tạo xác trần
Không giao chánh giáo tay phàm
Chuyển cho Phật Giáo hoàn toàn qui nguyên
Thầy đau đớn xót thương con dại
Mười ngàn năm nhân loại dập vùi
Biển trần chìm nổi chơi vơi
Càng xa Chánh Giáo, gần mùi lợi danh
May hữu phước, duyên lành gặp Đạo
Ráng lo tu, lo tạn quả duyên
Thế gian muốn có của tiền
Tạo nên sản nghiệp chức quyền dễ đâu
Phải tìm phương làm giàu tạo tác
Phải sớm chiều nhọc xác khổ thân
Đó là của tạm hồng trần
Sắm nên còn khó, huống phần thiên thiêng
Muốn đắc đạo ngôi Tiên, vị Phật
Nhẫn, khiêm, hòa, tánh chất hiền lương
Lập ngôn, lập đức, lập công
Trọn phần nhơn đạo, mới tùng Đạo Tiên
Muốn đến đặng nơi miền cực lạc.
Nguồn : sưu tầm

aaaa

các bài Phật Pháp