Thứ Tư, 31 tháng 5, 2017

Đò Chiều

Đò Chiều

Trong cảnh mặt trời sắp khuất xuống núi, khách lữ hành vội vàng bước xuống bờ sông để đi đò qua bến kia, mau kịp về trong bóng hoàng hôn chợp chờn buổi chiều tà mờ nhạc hoang sơ. Khi vừa bước cho kịp chuyến đò cuối của buổi chiều tà, khách lại bàng hoàng lo lắng không biết con đò còn đợi kịp mình hay không. Vì nếu lỡ chuyến đò chiều nay thì khách lại phải đợi đến sáng mai mới qua sông được. Và trong đêm tối, khách phải kiếm chổ trú tạm qua đêm hay phải đương đầu với bao nổi bất trắc có thể xảy ra trong đêm trường cô tịch. Những ai đã từng đối diện với cảnh nầy, sẽ cảm nhận được nỗi khó khăn, vừa lo lắng cho cảnh khổ hiện tại vừa lo cho ở nhà mọi người đang trông mong mà mình chưa về được. Để diễn tả cảnh nầy trước đây có một nhà thơ kiêm họa sĩ đã vẽ lại buổi đò chiều và ghi lại hai câu thơ như sau :
 Sương đã dâng lên chiều lăng xuống 
 Chuyến đò sắp tách bến sang sông ! 
 Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ mà Đức Chí Tôn khai mở cũng vừa đúng vào buổi hạ ngươn mạc kiếp, là ngươn cuối cùng của một chu kỳ vận hành tấn hóa của càn khôn vũ trụ. Sự mở Đạo của Thầy cũng không khác gì buổi đò chiều, vì thế mà Đức Mẹ nhiều lần đã giục chúng ta.
 Con chớ có dần dà trễ bước
 Trễ bước rồi không được an thân 
 Muôn năm mới có một lần 
 Lần ba không gặp vô phần lắm con. 
( Đức Mẹ dạy Tý thời ngày 19 - 5 Ất Tỵ năm 1956 ) Chuyến đò chiều của lữ khách nếu trễ thì đợi đến sáng mai sẽ có chuyến đò mới của ngày hôm sau. Nhưng chuyến đò của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do Thầy mở thì muôn năm mới có một lần, thì rõ ràng đây là cơ hội cuối cùng và tối hậu để chúng ta leo đò trở về bến khởi nguyên. Vì từ bến khởi nguyên ra đi Thầy có dạy :
" Một sứ mạng Thầy dành hai ngã, một ra đi một trở lại Thầy " " Nếu chậm chạp thì lỡ chuyến đò chiều " nầy thì làm sao mà trở lại được, chẳng lẽ phải đợi đến thất ức niên sau ! Ôi ! không có gì bất hạnh cho bằng Trong buổi đàn ngày 19 tháng giêng năm Đinh Mão ( 20 - 2 - 1927 ) Đức Chí Tôn có dạy :
" Tạo hóa đã sắp bày độ dẫn, nhuần gội ân huệ cho sanh linh đương buổi hạ ngươn nầy. Ta vì đức háo sanh, mượn giọt từ bi hội tam giáo mà rưới khắp càn khôn để độ rước những bậc chí thánh đọa trần trước khi Thiên điều hình phạt. Họa Âu, tai Á sẽ vì nơi Thiên thơ mà sát phạt gieo sầu, đổ thảm cho những giống dân nào đã vì hung bạo mà gây nên điều thán oán khắp cả càn khôn nầy. Ai mau bước đặng gặp mối chánh dẫn truyền mà lần hồi lập công chiết quả để lánh cả muôn điều não về sau. Chúng sanh khá biết cho... Thế nên Thầy đã dạy "
Trời chiều đò chót rán qua mau
Trễ chuyến nầy đây khổ biết bao
Bốn hướng mịt mù không nẻo tới
Năm nơi hắc ám khốn đường sau !
Cọp beo gầm giỡn trên rừng rậm
Trăn rắn vừa bơi dưới vực sâu
Chỉ xuống thuyền ông là thoát chết
Kêu nhau mau xuống, xuống qua mau ".
Nhưng cũng vì vô minh che lấp, nên con người không biết được điều hư, lẽ thực cứ lúng túng trong đường danh lợi rồi tạo nghiệp và bị nghiệp báo. Việc nầy Đức Hải Triều Thánh Nhân đã dạy :
 Đời nhằm lúc phân tranh tiêu diệt
 Ai thấu cơ hư thiệt mà lường 
 Liên miên chồng chất tai ương 
 Nhơn sanh lúng túng trong đường lợi danh 
 Mãi mãi cứ chạy quanh xin xỏ 
 Mãi mãi toan trông đó, ngó đây 
 Hay là phải chịu họa lây tội tràn. 
Và cũng vì thế mà Đức Chí Tôn đã khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
" Trời vì thương chúng sanh khổ não 
Bèn khai sinh Đại Đạo cứu đời 
Thoát vòng bể khổ trần vơi 
Khỏi vòng luân chuyển luân hồi đọa sa". 
 Khi nói về chuyến Đò, thiết nghỉ ta phải hiểu là phương tiện.Vì lẽ Đạo là mặc nhiên bản thể, vô thủy, vô chung, là cơ quan sanh hóa muôn loài vạn vật, là cơ vận chuyển càn khôn vũ trụ. Còn các tôn giáo được ví như những phương tiện để cảm hóa sanh hay là những phương tiện để cảm hóa nhơn sanh hay là những chuyến đò đưa nhơn sanh từ bờ mê qua bến giác để về được với Đạo, do đó tôn giáo thì có nhiều mà Đạo thì chỉ có một, một là chân lý vậy. Đạo Trời biến hóa vô thủy, vô chung, nhưng trước sau bản thể vẫn là một. Nói đến Đạo là nói đến chân lý. Chân lý rất giản dị, cái giản dị của chân lý là cuộc gặp gỡ nhau, gặp gỡ nhau ở lẽ một và một là ngôi nhất.    

Thầy lược giải huyền vi số một 
Một là nhất quán vĩnh tồn sinh 

 Một là vốn diệu linh tiến hóa 

 Một là sinh tất cả 

 Khắp trong vũ trụ rộng dài 
 Đều do một Đạo Cao Đài hóa sinh 

 Và Đức Chí Tôn đã dạy :
 " Đạo là ngôi nhất nguyên chủ thể 
 Đạo cũng là đồng thể vạn linh 
 Từ trong vạn vật hữu hình 
 Nhơn thân xã hội gia đình nước non
 Đạo là lẽ các con đang sống 
 Đạo là quyền cao trọng che chở 
 Thu đông mãn đến xuân hè 
 Vận hành Thiên Đạo mọi bề dưỡng nuôi
 Đạo chẳng luận ở nơi vương bá 
 Đạo không phân sằn giả lâm bô 
 Dấng thân trên nẻo thế đồ 
 Con mang cái Đạo từ giờ mới sanh " 
( Thiên Lý Đàn Ngọ thời 13 - 4 Đinh Mùi 21 - 5 - 1967 ) Qua đó ta biết được Đạo là cứu cánh còn Tôn Giáo là phương tiện, cũng vì tôn giáo được ví như những chuyến đò nên Đức Đạo Thoàn Chơn Nhơn giáng Đàn tại Vĩnh Nguyên Tự đã nói như thế nầy :
" Người muốn tu hành lão chỉ cho 
 Qua sông phải tạm mượn con đò 
 Sang bờ vạn pháp nên rời bỏ 
 Một túi càn khôn vạn chưởng cơ " 
Trong câu : " qua sông phải tạm mượn con đò " ở đây có nghĩa là cần phải nương theo cái phương tiện tôn giáo để về bến giác, chứ tôn giáo không phải là cứu cánh và đến được bến giác thì phải rời khỏi cái phương tiện, ở đây tôn giáo được xem như là con đò, là phương tiện hay ngón tay của Đức Phật chỉ ánh trăng chỉ là phương tiện, nếu ta cứ nhìn mãi ngón tay Phật thì chúng ta sẽ không bao giờ thấy ánh trăng. Và nói về cảnh đò chiều thì Đạo Trưởng Huệ Lương sau khi thoát xác, đắc phẩm vị Quảng Đức Chơn Tiên cũng về đàn tâm sự
" Nhìn nhau bỗng rưng rưng giọt lệ 
 Nỗi mừng thương huynh đệ thiên ân 
 Mừng vì đường lối chánh chân 
 Thương vì sứ mạng lắm phần gây go 
 Thôi thì thôi chuyến đò buổi chót
 Lòng dặn lòng đắng ngọt chớ nao " 
Qua đó ta thấy Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là chuyến đò cuối cùng mà Đức Chí Tôn đã mở ra để đưa con cái của Ngài trở về bến khởi nguyên hầu lập đời thượng ngươn Thánh Đức. Cùng ý nghĩa tôn giáo là chiếc đò để đưa nhân sanh trở về bến khởi nguyên. Đức kitô giảng dạy ở Hườn Cung Đàn :
" Thế gian ai cũng qua đò
Sang bờ giác ngạn lần dò đi lên"
Như vậy khi sang bờ giác chúng ta lại phải rời khỏi con đò để tiếp tục con đường tu hành ở cõi trên. Điều đó có nghĩa rằng nếu sống ở cõi nhị nguyên nầy là ta không vận dụng hết phương tiện là pháp môn tam công của Đại Đạo để tu chứng thì sau khi rời khỏi con đò ta lại còn phải tiếp tục tu học rất khó khăn đúng như câu :
" Sang bờ giác ngạn lần dò đi lên ".
Chữ lần dò cho thấy nỗi khó khăn đó. Nhưng hiện nay thế nhân đang hụp lặn trong cảnh trần, đang bon chen tranh giành giữa buồn vui được mất. Mấy ai hiểu được cảnh đò chiều ! đúng như lời Đức Quan Âm đã dạy: Lên Đò Tam Kỳ Sang Bên Giác.

1. Dẫn Nhập : 
 Kim ô khuất núi bóng chiều tà 
 Lữ khách tìm đò qua bến giác 
 Đò buổi Tam Kỳ đang rước khách 
 Trễ đò lo ngại nước non xa 
 Nước non xa trải qua tăm tối 
 Biết nơi đâu tìm lối trú đêm 
 Đường xa cảnh lạ nỗi niềm 
 Tấm lòng lữ khách còn thêm bồn chồn 
 Sương bao phủ hoàng hôn cô tịch 
 Mong đò chiều chủ đích sang sông 
 Trễ đò lỡ bước nao lòng 
 Khổ trần đuổi tới đò không đợi chờ 
 Đợi chờ lữ khách muốn qua sông 
 Hai chữ Cao Đài nhớ dặn lòng 
 Ngươn cuối Hoàng Thiên ra cứu độ 
 Trễ đò lỡ cuộc chịu long đong.

2 - Lời Mẹ Dạy : 
 " Con chớ có dần dà trễ bước 
 Trễ bước rồi không được an thân 
 Muôn năm mới có một lần 
 Lần ba không gặp vô phần lắm con "

3. - Minh Luận : 
 Người trể đò thon von tất dạ 
Phật, Thánh, Tiên cũng đã trao truyền 
 Đò Trời rước khách hữu duyên 
 Muôn năm mới có chơn truyền
 Đạo Cha Bến khởi nguyên ai mà có nhớ ?
Thầy dạy rằng hồn có hai đường
Ra đi phải nhớ liệu lường
Đường về nhắm hướng tầm phương Cao Đài
Thất ức niên lâu dài chuyển kiếp
Biển trần ai liên tiếp nổi trôi
Biết bao sóng dập gió dồi
Muôn ngàn kiếp học biển đời khổ đau
Đò Tam Kỳ mau mau bước xuống
Phước Cao Đài cuồn cuộn huyền linh
Phật, Tiên, Thần, Thánh đồng tình
Phò cơ đại xá, đại linh, đại toàn
Đời cuối tận Ngọc Hoàng cứu thế
Quãng Đức Tiên kể lễ sự tình
Chờ đò khá vững đức tin
Bền tâm, định, đinh ninh sở cầu
Tình đồng đạo nao nao giọt lệ
Nỗi mừng thương huynh đệ Thiên Ân
Mừng vì đường lối chánh chơn
Thương vì sứ mạng lắm phần gay go
Thôi thì thôi chuyến đò buổi chót
Lòng dặn lòng đắng ngọt chớ nao
Cao Đài hiển hích một màu
Là màu cứu thế đi vào thượng ngươn
Chúa Kitô ban ơn dạy dỗ
Hườn cung đàn nhắc nhở qua đò
Sang bờ giác ngạn lần đò
Tâm linh mẫn tiệp, môn đồ đi lên
Chớ mê đời trần miền kẹt lại
Cõi nhị nguyên còn phải học bài
Học bài tiến hóa học hoài
Lần dò học mãi đường dài gian nan
Hiện cõi trần thế nhơn lặn hụp
Miếng đỉnh chung lục đục đua chen
Tranh ăn giành sống đã quen
Người sang cũng lắm người hèn cũng đông
Khó kiếm người một lòng vì Đạo
Vì phàm tâm thông thạo mùi đời
Nghe Đạo thì vội bật cười
Bao người mê ngủ biếng lười chuyện tu
Thương cho kẻ lu bu danh lợi
Buồn cho người tiến tới sông mê
Phật, Trời kêu gọi không về
Vẫn còn lãng đãng như hề phóng tâm !
Tội cho kẻ lạc lầm phiêu bạt 
 Chẳng mấy ai cánh hạt tung bay 
Cao Đài tận độ lần nầy  
Là cơ hội chót cho ai chán đời 
 Đường tối hậu ai người để bước 
 Phải làm sao ngộ được chơn tâm 
 Phật Tiên dạy phép giải phàm 
 Tiền khai Đại Đạo dạy tầm Như Lai.
Và trong cảnh đò chiều tại thế 
Môn đệ Thầy được kể phước dư 
Chí Tôn, Kim Mẫu, Đại Sư 
 Điển lành ban bố , bút cơ giáo truyền 
 Bày chơn lý Tiên Thiên Đại Đạo 
 Đánh thức tâm bổ báo phước lành 
 Siêu phàm nhập Thánh dạy rành 
 Căn Tiên, cốt Phật thượng thanh qui hồi 
 Lên đò chiều thoát rồi kiếp nạn 
 Bờ giác kia tỏ rạng chủ ông 
 Tâm linh kiên cố nơi lòng 
 Thế Thiên hành hóa kỳ công đắc thành 
 Bước lên đò tu hành tích cực 
 Hành tam công gắng sức vượt lên 
 Nhơn hiền, Thánh Triết, Phật Tiên 
 Ngàn năm một thuở phỉ quyền ước ao 
 Công phu khó, làm sao chu tất 
Khai Huyền Quan cẩn mật hành trì 
 Rước đưa huynh đệ cùng đi theo Thầy 
Công trình Đạo ngày ngày sữa nết 
 Nết Phật Tiên sạch hết tâm đời 
 Cái ta hòa với cái người 
 Hòa đồng huynh đệ con Trời chánh tu 
 Mười điều răn công phu, công quả 
 Thêm công trình nhứt dạ sắc son 
 Thăng hoa siêu diệu linh hồn 
 Trở về cực lạc vĩnh tồn muôn thu 
 Một: xin nhớ công phu bất thối 
 Luyện khí thần sớm tối tinh minh 
 Tham thiền tự nhủ nơi mình 
 Trò đời, thế sự, bóng hình, tựu tan. 
Hai: khẳng định thế gian tạm bợ 
 Dù Đế Vương cũng nợ trần hồng 
 Thói phàm dẹp sạch nơi lòng 
 Đò Trời tách bến xuôi dòng trường giang 
Ba: nhứt quyết lên thuyền Bát Nhã 
Khổ trần ai lòng đã chán rồi 
 Tìm nguồn an lạc đời đời 
 Một lần siêu thoát để lời khuyến tu 
Bốn: cẩn mật công phu chuyển dục 
 Khai Thiên Môn phá ngục trần gian 
 Dẹp tan tánh khí lăng loàn 
 Cá nhơn chủ nghĩa theo đàng Như Lai 
Năm: chớ quên xác trần tạm bợ 
 Không bám vào món nợ trầm luân
 Không thái quá, chẳng lưng chừng 
 Đạo thường tu tiến xin đừng bôi lem 
Sáu: tự xét lem nhem tục tánh 
 Học trò Tiên xa lánh đường tà 
 Tự ta chuyển dục trừ ma 
 Đò chiều đợi khách ấy là dĩ nhiên 
Bảy: căn tội con Tiên cháu Phật 
 Giữ tinh anh phẩm chất Như Lai 
Huyền quan khi đã hoát khai  
Bản năng thanh tịnh thiên tài vạn an 
Tám: vận dụng trí năng biện luận 
 Giữ âm thầm nghịch thuận phân minh 
 Chung qui siêu xuất tánh linh 
Âm dương thần khí quân bình Bổn lai 
Chín: nhơn phẩm miệt mài năng lực 
 Người chơn tu tự sức giác năng 
 Linh quang diệu giác thường hằng 
 Phật tâm siêu xuất theo lằn điển quang 
Mười: kinh nghiệm thế gian đã biết 
 Xuất kim ngôn nghi tiết đành rành 
 Giải kinh vô tự mối manh 
 Thiện duyên vui bước đường lành hồi nguyên 
 Nói chung lại khách thuyền nghịch chuyển 
 Khai Thiên Môn trực tiến siêu thăng 
 Rõ ràng trí tuệ lương năng 
 Đò Trời thẳng hướng đưa sang 
 Thiên Đình Đạo tu tiến do lòng định tĩnh 
 Dẹp sạch tình chủ định kim thân 
 Minh tâm, kiến tánh, rạng thần 
 Chủ ông vững mạnh chơn thân siêu phàm 
 Dụng thần khí chủ tâm làm gốc 
 Đức Đông Phương dạy học rành rành 
 Người tu khử trược lưu thanh 
 Tam hoa tụ đảnh, ngũ hành triều ngươn.

4 - Kết Luận :
 Chủ ông gặp chuyến đò chiều 
 Giải hết phàm tình địa ngục tiêu 
 Thầy Mẹ dạy khuyên tâm giác ngộ 
 Phật, Tiên truyền dạy hạnh cao siêu 
 Nhơn hiền lẫn tục tu cần tiến 
 Thánh Triết lên đò học hỏi nhiều 
 Nên biết cơ đời đang cuối tận 
 Không tu cam chịu cảnh tiêu điều 
 Tiêu điều nhơn loại chịu lầm than 
 Địa ách, nhơn tai diễn đủ màn 
 Xuống biển chịu nhiều cơn bão tố 
 Lên đò mới tránh khỏi gian nan 
 Tam Kỳ mở hội kêu đời tỉnh 
 Đại Đạo hoằng khai cứu thế gian 
 Kẻ tri đoái nhìn cơ mạc pháp 
 Chủ ông giác ngộ sống huy hoàng. 
 Hằng Niệm Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát sau đây là lời dạy hết sức đặc biệt của Đức Di Lạc Thiên Tôn.
  
Kệ 1 :
Tám muôn bốn ngàn pháp
Vào thời kỳ mạc kiếp
Dễ tu có mỗi món Niệm Cao Đài
Thượng Đế Các dục vọng tiêu tan
Tâm trí được sáng suốt
Niệm Thầy một lòng thành
Được trở về Thiên Quốc.
Kệ 2 :
Tất cả tấm lòng thành
Gom vào niệm Thượng Đế
Khi niệm ấy phát lên
Vang rền trong Trời Đất
Rừng mê cháy sạch không
Biển khổ lắp bằng mặt
Chở trong cái hoát nhiên
Ngộ Thiên nhân hiệp nhất.
Kệ 3 :
Niệm Cao Đài Thượng Đế
Nối liền không hề dứt
Lục tặc hết đường sanh
Tam bành không chổ xuất
Tan dần nẻo ngục môn
Hiện rõ đường Thiên Quốc
Sức mầu nhiệm vô cùng
Khi được đầy công đức
Kệ 4 :
Ai đứng niệm danh Thầy
Nằm ngồi tri thương phụ
Thức cũng tưởng Cao Đài
Ngủ cũng nghỉ Thượng Đế
Nói cũng nhớ Nam Mô
Nín cũng ôm Đạo Sư.

Đọc xong bài đò chiều mà chúng ta cũng chưa nhận ra được đây là chuyến đò cuối cùng để leo lên trở về bến giác, thì chúng ta có đứng ở bờ mê kêu la cũng vô ích. Vì Đức Mẹ có dạy : "
Chừng đời thuyền bơ vơ trẻ ngọc 
 Đứng kêu la than khóc nỉ non 
 Làm sao Mẹ rước hởi con 
 Bởi vì luật định tại con trễ kỳ. 
" Trích Lục Theo kinh tam ngươn giác thế ( chiếu minh đàn cần thơ, nhà in phương nam, do tiền bối cao triều trực ấn tống ) trong đàn cơ ngày 2 - 11 Tân Mùi thứ năm ngày 10 - 12 - 1951, Đức Thần Oai Viễn Trấn Quan Thánh Đế Quân giáng dạy như sau :
 " Phàm người tu hành mà đặt đặng một bộ kinh sám mà khuyên chúng ta làm lành thì người ấy đặng thành Tiên. Nghĩ Vụng Lời dạy của Đức Hiệp Thiên Đại Đế Tam Trấn Oai nghiêm soi rọi cho mọi người thấy rằng việc tiếp tay phổ truyền cho văn hóa Đạo đức sâu rộng trong xã hội nhân sinh để góp phần xây dựng cuộc đời trở nên thuần lương, Thánh thiện là một việc rất quan trọng, rất cao quý. Đó là lý do kinh sách tam giáo xưa nay luôn đề cao việc pháp thí. Người có trí năng thì thuyết giảng, biên soạn. Người có tài chánh thì ấn tống. Thậm chí người thiếu khả năng để làm một trong hai việc ấy cũng vẫn thừa sức thực hành pháp thí, nhưng bằng cách nào ? Thực hành rất đơn giản, bằng cách biết trân trọng Thánh Kinh hiền, truyện, sách vở Đạo lý, chẳng những giữ gìn cho chính mình đọc mà còn tùy cơ hội thích hợp, chân thành giới thiệu cho người khác cùng đọc, cùng chia sẽ với nhau những ý vị thanh cao để noi theo đó làm đẹp cuộc, trau luyện tâm hồn, giúp tư tưởng luôn luôn gần gũi lời Tiên tiếng Phật".

Cảm Nhận Cửa Thiên Thầy gọi rán tu đa
 Lập đức, lập công cửa Đạo nhà
 Giữ vững niềm tin tìm Chánh Giáo
 Lần đường đi đến Ngọc Hư mà
 Danh phận cho tròn công quả ta
 Phận sự chung lo cửa Đạo nhà
 Mỗi kẻ, mỗi người, đồng chung sức
 Xây dựng chung cho một ngôi nhà
 Hai bên Đời, Đạo giữ cho tròn
 Phải biết gìn lòng dạ sắc son
 Lập đức, lập công là trong dạ
 Hiến dâng Phật Mẫu, Đức Chí Tôn.
Thương kẻ tục dãi dầu sớm tối
 Chốn hồng trần không lối thoát ra
 Thế gian cứ tưởng là nhà
 Lo xây kiên cố ở mà muôn năm.
 Người ta thường xếp thế nhân thành ba loại người, những kẻ thượng sĩ thì ưa thích nghe Đạo lý và làm theo, kẻ trung sĩ cũng thích nghe Đạo nhưng lúc nhớ lúc không, lúc nghe Đạo giống như đang ngủ bị người ta đánh thức dậy, nhưng khi người ta đi rồi lại ngủ tiếp, không còn biết Đạo là gì, còn kẻ hạ sĩ thì nghe Đạo là chế nhiễu. Nhưng tất cả mọi người đều có Phật tánh như Đức Phật hằng nói :
" Chúng sanh gia hữu Phật tánh " Họ cũng tin tưởng vào đời sống tâm linh, nhưng do giành quá thời gian cho cuộc mưu sinh rồi tự dẫn dắt mình vào con đường lầm lạc. Trong kinh Sám Hối có câu :                           
" Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật 
 Mà trong lòng chẳng thật kỉnh thành 
 Lâm nguy miệng vái làm lành 
 Tai qua nạn khỏi dạ đành phụ vong ". 
Nhưng ngặt nỗi thời gian đâu có chờ đợi ai. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trước đây đã than cho số phận ngắn ngủi của kiếp người :
" Bao nhiêu năm làm kiếp con người 
 Chợt một chiều tóc trắng như vôi 
 Lá úa trên cao rụng đầy 
 Cho trăm năm vào chết một ngày ! " 
Trăm năm bận rộn với những toan tính hơn thua, so với cuộc đời con người thì dài nhưng khi đầu tóc của mình đã điểm bạc thì thấy rằng thời gian chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, mọi việc điều vô thường, chuyển biến rất nhanh. Nhưng đến lúc ấy có còn kịp chuyến đò chăng ? Cuộc sống con người thật ngắn ngủi. Xin kể lại câu chuyện của ba ông già ngồi uống rượu tâm sự với nhau. Ông già thứ nhất thì sợ không biết hôm nay cùng nhau ăn uống như thế nầy nhưng năm sau không biết có cùng nhau đối ẩm nữa không ? ông ta mới nói câu thơ chữ nho như vầy :
" Kim niên tịch tữu diên tiền hội 
 Bách tri lai niên hựu thiếu thùy " 
Nghĩa là hôm nay tiệc rượu cùng ăn uống, chẳng biết sang năm thiếu mặt nào ? Ông già thứ hai lại nghĩ rằng đời nầy sống chết chỉ cần qua đêm, nếu trúng gió không biết sáng mai có mặt ở cõi đời nầy hay không ? Ông ta nói :
" Kim vãng thoát hạ hài hòa miệt 
 Bất tri thiên minh xiên bất xiên " 
Nghĩa là đêm nay giày vớ cởi ra hết, chẳng biết sáng ngày xỏ lại không. Ông bà thứ ba lại cho rằng cái chết có ngắn ngủi hơn đâu cần qua một đêm :
 " Giá khẩu ký khí nhiên xuất khứ 
 Bất tri tấn lai, bất tấn lai" 
 Nghĩa là hơi thở nầy đây phì khỏi miệng, chẳng hay trở lại hoặc đi luôn. Có người bảo rằng bây giờ tôi bận nhưng sau nầy khi tôi có thời gian tôi sẽ đi tu. Cuộc sống vô thường nơi cõi tạm, sống nay, thác mai, biết liệu có thể sống thọ để tu rồi mới chết ? Việc nầy Đức Mẹ Diêu Trì có lần giáng dạy tại Thánh Thất Kim Long Thành - Định Tường Mẹ dạy như sau :
" Khi tư thần vô thường đến bắt 
 Hẹn được chăng tôi mắc việc nầy 
 Rảnh rang tôi sẽ nương tay ông liền 
 Hay là con nhào nghiêng ngã ngửa 
 Dứt hơi liền giữa bữa cơm ngon 
 Để cùng thần tử dời chơn 
 Về nơi cảnh giới giã chơn biết nào ? " 
 Cũng có người biết con đường tu là con đường tối hậu mà hành giả phải đi để không bị sa đọa vào lúc đạo luân hồi, nhưng không ngộ được chơn tâm, nên còn bán tin, bán nghi, lúc tin, lúc ngờ bởi còn bị vô minh che mắt. Do đó ta phải xác định tư tưởng và dứt khoát mạnh dạng bước lên đò chiều như ơn trên dạy :
" Đã biết là bể dâu thay đổi 
 Đã biết rằng mây nổi rồi tan 
 Hơi mô nói chuyện đinh hoàn lo
 Đường đạo đức thanh nhàn dài lâu ". 
 Và trong cảnh đò chiều tại thế gian nầy, chúng ta may mắn được sanh vào thời kỳ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khai mở của Đức Chí Tôn, được Thầy Mẹ và các đấng trực tiếp ban bố điển lành bằng cơ bút.Nên chúng ta học hiểu được giáo lý, như Đức Mẹ đã dạy :

" Tu phải học hiểu qua giáo lý 
 Giáo lý là kim chỉ hướng nam 
 Cho con nhập Thánh siêu phàm 
 Thoát vòng luân chuyển con tằm nhộng tơ 
 Học cho hiểu bến bờ mê giác 
 Học cho thông thiện ác đọa siêu 
 Con học nhiều sẽ hiểu nhiều 
 Hiểu hành càng kỹ càng siêu thoát về " 
 Và khi thân ta còn tráng kiện, tâm trí ta còn minh mẫn, ta phải lo tu thân sửa tánh, ra sức hành Đạo, lâp công bồi đức để đem Đạo cứu đời. Nếu không đến chừng già yếu tóc bạc, da mồi thân thể gầy gò bịnh hoạn ốm đau không làm gì được để giúp đời, giúp Đạo, chúng ta sẽ ân hận thì đã muộn màng. Việc nầy Đức Lý Giáo đã dạy trong một đàn cơ tại cơ quan phổ thông Giáo Lý Đại Đạo - Tuất thời ngày 14 tháng 2 năm Ất Mão 26 - 3 - 1975 như sau " Người giác ngộ, hãy tự nguyện tìm việc Đạo mà hành trong lúc còn phương tiện, sức khỏe, ngày giờ có thể hành được. Đừng để khi nước đến chân, lửa cháy mày, dù muốn làm cũng không sao có phương tiện, sức khỏe và thì giờ " Và khi đã bước lên đò là chúng ta đã tu học theo tôn giáo hướng dẫn, nhưng để có thể rời bỏ con đò chiều, bước lên được bên kia bờ giác, chúng ta phải thực hành theo Pháp Môn Tam Công " Công trình - công quả - công phu, Tam công hội đủ đường tu dễ dàng " Chứ không phải là leo được lên đò thì cũng leo xuống đò được như việc làm ở cõi thế gian nầy. Và trong tam công thì công phu là thách thức khó khăn nhất mà ta phải đối mặt. Nguồn gốc khó khăn cơ bản trên con đường công phu thể hiện trên hai mặt :

1 - Thế gian thấy tất cả sự trên đời nầy đều cho là sự thật, lâu bền, hằng thường bất biến. Công phu hành thiền cho ta biết tất cả các hiện tượng trên thế gian đều giả, tạm bợ, có đó rồi mất đó hạn hữu vạn pháp đều do duyên sinh hay tương quan nhân quả và vạn duyên nhất thiết duy tâm tạo. Hay nói xa hơn cõi trần thế là bóng vang của tâm thức.

2 - Thế gian thấy hạnh phúc tạm bợ cho là an vui miên viễn. Công phu hành thiền nhìn hạnh phúc tạm bợ, trong thực tế lại có tiềm tàng khổ đau.

3 - Thế gian thấy sự phấn đấu của mình là khổ. Công phu hành thiền thấy sự chiến thắng chính mình là đầu mối của an lạc và giải thoát vĩnh viễn.

4 - Thế gian tôn vinh cá nhân. Công phu hành thiền phá bỏ chủ nghĩa cá nhân ( thuần chơn vô ngã )

5 - Thế gian bám víu vào các cực đoan. Đó là không xa hoa thái quá, không khổ hạnh thái quá, cũng không rơi vào phân biệt nhị nguyên. Thầy đã dạy : " Tu hành giữ mực thường thôi Đừng bày vẽ lắm mà bôi lem đầy ! ".

6 - Thế gian thấy bằng suy luận. Công phu hành thiền dạy ta thấy như thật.

7 - Thế gian suy nghĩ. Công phu hành thiền dạy ta không suy nghĩ để nhận ra bản chất của chính mình.

8 - Thế gian sử dụng trí năng biện luận. Công phu hành thiền dạy ta sử dụng tánh biết thường hằng lặng lẽ để nhận ra chân tánh hiện tượng.

9 - Thế gian dùng lý luận để khai triển năng lực trí lực. Công phu hành thiền dạy ta không lý luận để khai triển tiềm năng, giác ngộ Phật tánh để thấy rõ chơn như bổn thể của mình.

10 - Thế gian thích dùng cái biết, sử dụng nhận thức nhờ phương tiện có lời nói. Công phu hành thiền chỉ dạy ta cái biết sử dụng nhận thức không lời " Câu kinh vô tự độ người thiện duyên ". Ngoài ra ta phải giữ ba phép : Giới, Định, Huệ ( muốn diệt tham, sân, si cần phải giữ Giới, Định, Huệ ).

1 - Giới : răn chừa không tạo các nghiệp ác tức là tịnh thân, tịnh khẩu, tịnh ý. Tâm địa không quấy.
2 - Định : ngoài không nhiễm trần, trong không tán loạn, tức là trong ngoài đều vắng lặng, tâm địa không rố.
3 - Huệ : tâm địa trống không, trong sạch, niệm thấy tánh, tâm thể quang minh, soi thấu muôn pháp. Tâm địa không si, thiên địa chi tâm ( tức là tâm là tâm, mà cảnh là cảnh ) Định đưỡc ví như ngọn đèn còn Huệ là ánh sáng phát ra. Nói chung chủ đích " ngược dòng " của công phu hành thiền là công phu hành thiền nhằm cho ta biết thực tướng hay thực tánh của hiện tượng. Thế gian vốn vô thường, xung đột, không thực chất tính và duyên sinh hay tương quan nhân quả. Công phu hành thiền nhằm dạy ta cách đánh thức năng lực tính tự giác hơn là sử dụng năng lực trí năng, cách khai triển tiềm năng giác ngộ hơn là bám chặt từ chương, cách chuyển đổi nhận thức cũ thành nhận thức mới hơn là bám chặt nhận thức theo truyền thống nhân gian, theo những thành kiến, định kiến cá nhân chuyển tâm mê thành tâm giác. Muốn làm được điều nầy, chúng ta phải cố gắng thực hiện như lời dạy của Đức Đông Phương Chưởng Quản :

" Hằng bồi dưỡng tâm bình hạnh trực 
 Giữ đừng cho vọng thức lấn quyền 
 Sáu tình, bảy dục được yên 
 Tâm hồn tươi sáng là Tiên siêu phàm 
 Tâm mà được công tham tịnh định 
 Ấy là nguồn dưỡng tánh tồn tâm 
 Xác thân do đó khởi mầm 
 Sống lâu khỏe khỏi tầm linh đơn 
 Hằng ngày phải luyện thân luyện kỷ 
 Sự ăn ngủ nghỉ có chừng 
 Những điều đắc thất vọng hưng 
 Bại thành ngoại cảnh xin đừng động tâm " 
Chỉ có ta với sự sáng suốt, biết nương theo pháp môn để dụng công với hy vọng đạt được trí tuệ tâm linh, chuyển hóa nghiệp thức, nội chứng, giác ngộ và giải thoát tối hậu để bước lên khỏi cảnh đò chiều. Diệu dụng của công phu hành thiền là :
" Ngồi mà luyện linh châu mới biết
 Lòng được yên khí huyết được điều
 Hồn mình bay bổng cao siêu
 Kề tai nghe được Thiên Điều dạy khuyên
 Khuyên ta quay về miền thanh tịnh
 Dạy ta nhiều phép kín độ đời
 Công tu nhờ đó tỏ ngời
 Tâm ta nương đó đất trời huyền thông
 Lần lần thử đôi vòng thì biết
 Biết lần lần hư thực chẳng sai
 Biết ta trong pháp Cao Đài
 Không sanh không diệt không ngoài không trong
 Muốn cho giặc tình dục được yên được dứt
 Phải dụng công điều tức, điều thần
 Mình mà làm chủ được thân 
 Khác chi muôn tạ, hòn cân nhích bằng 
 Ngồi thanh tịnh lần phăng trở lại 
 Mới thấy mình làm sái bước ra 
 Công phu chẳng qua là vận âm dương".

( Thần khí : thần là dương, khí là âm, mà âm dương là Đạo nhất âm nhất dương chi vi Đạo ). Đó là ta biết vận dụng hơi thở để điều hòa thân tâm, nhớ đó thân tâm an lạc ít bịnh hoạn ốm đau, và Đức Đông Phương Chưởng Quản cũng dạy :
" Biết hô hấp còn hơn dùng thuốc 
Vận khí công là nước ma ha 
Nhơn thân ít bịnh lâu già 
 Xác thân tráng kiện thịt da hồng hào 
 Khí bồi dưỡng tế bào non trẻ 
 Khí châu lưu sức khỏe kiện cường 
 Khí thần vốn thiệt âm dương 
 Âm dương hiệp nhất là hườn chánh trung 
 Hạo nhiên khí khởi tùng nơi đó 
 Khí thái hư cũng là đây 
 Nhịp thâu khí ấy là bài trường sanh 
 Khi khí ấy trưởng thành chánh khí 
 Thì các loài tà mị tránh xa 
 Bây giờ ta mới thật ta 
 Cao Đài nội tại ta là chủ ông. " 
Và khi đã là Cao Đài nội tại ta là chủ ông là lúc ta có thể rời khỏi chuyến đò chiều để bước sang bến giác. Nhưng chúng ta không quên kêu gọi mọi người lo bước lên thuyền của Thầy Trời đang chực rước : "
Trời chiều đò chót ráng qua mau 
 Trễ chuyến nầy đây khổ biết bao 
 Bốn hướng mịt mù không nẻo tới 
 Năm nơi hắc ám khốn đường sau 
 Cọp beo gầm giởn trên rừng rậm 
 Trăn rắn đùa bơi dưới vực sau 
 Chỉ xuống thuyền ông là thoát chết 
 Kêu nhau mau xuống, xuống qua mau ".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

aaaa

các bài Phật Pháp